Úc là một đất nước có phong cảnh ấn tượng, một nền văn hóa lâu đời phong phú và là một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Nó là nước lớn thứ sáu trong lĩnh vực đất đai và là quốc gia duy nhất để cai trị một châu lục toàn bộ. Với một môi trường thiên nhiên ngoạn mục, chất lượng cuộc sống cao và đa dạng tuyệt vời, Úc có 10 phần trăm của đa dạng sinh học của thế giới và một số lượng lớn các loài cây bản địa và động vật của nó tồn tại nơi nào khác trên trái đất. Từ những khu rừng mưa nhiệt đới ở phía bắc đến sa mạc đỏ của trung tâm, từ sân trượt tuyết ở phía nam-đông đến Lãnh thổ Nam cực thuộc Úc, một vùng đất rộng lớn và đa dạng. Nước Úc có nhiều di sản thế giới bao gồm Great Barrier Reef, Vườn Quốc gia Uluru-Kata Tjuta và Nhà hát Opera Sydney.
Úc có sáu bang là New South Wales (NSW), Queensland (QLD), Nam Úc (SA), Tasmania (TAS), Victoria (VIC), Tây Úc (WA) và hai lãnh thổ đại lục là Lãnh thổ Thủ đô Úc (ACT) và Lãnh thổ phương Bắc (NT).
Diện tích đất liền của Úc là 7.617.930 kilômét vuông, tọa lạc trên mảng địa chất Ấn-Úc, bao quanh là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tách biệt với châu Á qua các biển Arafura và Timor, biển San hô nằm ngoài khơi bờ biển bang Queensland, và biển Tasman nằm giữa Úc và New Zealand. Úc là lục địa nhỏ nhất thế giới nhưng là quốc gia lớn thứ 6 về tổng diện tích, do kích thước lớn và biệt lập nên Úc còn được gán cho tên "lục địa đảo", và đôi khi được xem là đảo lớn nhất thế giới.
Úc có đường bờ biển dài 34.218 kilômét (21.262 mi) chưa tính đến các đảo ngoài khơi, và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng 8.148.250 kilômét vuông (3.146.060 sq mi), chưa tính đến vùng đặc quyền kinh tế của Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc. Rạn san hô Great Barrier (Đại Bảo tiêu) là rặng san hô lớn nhất thế giới, có một khoảng cách ngắn với bờ biển đông bắc của lục địa và trải dài trên 2.000 kilômét (1.240 mi).
Núi Augustus tại Tây Úc được tuyên bố là đá nguyên khối lớn nhất thế giới với độ cao 2.228 mét (7.310 ft), núi Kosciuszko thuộc Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy) là núi cao nhất tại Úc đại lục. Các đỉnh núi cao hơn là đỉnh Mawson với cao độ 2.745 mét hoặc 9.006 foot trên đảo Heard; núi McClintock và núi Menzies có cao độ lần lượt là 3.492 mét (11.457 ft) và 3.355 mét (11.007 ft) tại Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc.
Khí hậu Úc chịu ảnh hưởng đáng kể từ các dòng hải lưu, bao gồm lưỡng cực Ấn Độ Dương và dao động El Niño - phương Nam, tương quan với hạn hán theo chu kỳ, và hệ thống áp thấp nhiệt đới theo mùa là nhân tố sản sinh các xoáy tụ tại bắc bộ Úc. Các nhân tố này khiến cho lượng mưa thay đổi rõ rệt giữa các năm. Phần lớn phần bắc bộ của quốc gia có một khí hậu nhiệt đới, chủ yếu là mùa hạ - mưa (gió mùa). Góc tây nam của quốc gia có một khí hậu Địa Trung Hải. Phần lớn đông nam bộ (bao gồm Tasmania) có khí hậu ôn hòa.
Thời tiết ở Úc hàng năm khá ôn hòa, tuy nhiên nhiệt độ có thể thay đổi tùy theo diện tích của lục địa. Phía Bắc thường có thời tiết ấm áp quanh năm, miền Nam thường có mùa đông lạnh hơn. Australia cũng là một trong những châu lục khô hạn nhất thế giới với lượng mưa hàng năm thấp hơn 600 mm. Giống như mọi Quốc gia ở nửa bán cầu phía Nam, các mùa ở Australia đối lập với nửa bán cầu phía Bắc.
- Tháng 12 đến tháng 2 là mùa hè.
- Tháng 3 đến tháng 5 là mùa thu.
- Tháng 6 đến tháng 8 là mùa đông.
- Tháng 9 đến tháng 12 là mùa xuân.
Úc là một quốc gia thành công và thịnh vượng, đứng thứ hai trong Báo cáo Phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc năm 2014. Nền kinh tế của Úc luôn được xếp hạng trong số các nền kinh tế mạnh nhất của tiên tiến trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Úc là nền kinh tế đứng thứ mười hai của thế giới và một hiệu suất hàng đầu quốc gia trên hầu hết mọi biện pháp xuất sắc, từ sức khỏe đến sự giàu có, từ môi trường kinh doanh cho đến giáo dục thành công. Với tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát thấp và một lực lượng lao động có tay nghề cao, và với các liên kết mạnh mẽ với các khu vực phát triển nhanh nhất trên thế giới, Ấn Độ-Thái Bình Dương, nền kinh tế của Úc được thiết lập để phát triển thịnh vượng trong tương lai.
Úc là một quốc gia có cơ hội vô biên trong một đất nước tiềm năng vô tận, một quốc gia "mở cho doanh nghiệp". Chính sách ngoại giao và thương mại của Australia thúc đẩy an ninh và sự thịnh vượng lâu dài của nó. Úc tìm cách bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi quốc gia của mình trong một môi trường thay đổi nhanh chóng, trong khi hỗ trợ một trật tự toàn cầu ổn định. Australia đã được gắn tham gia vào nỗ lực toàn cầu để xây dựng hòa bình và an ninh trong nhiều thập kỷ, chỉ vì nó có trong việc thúc đẩy thương mại toàn cầu và tự do hóa đầu tư. Úc là một công dân quốc tế tốt, giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng và hỗ trợ phát triển kinh tế trong khu vực.
Úc là ngôi nhà của một trong những nền văn hóa lâu đời nhất trên thế giới, với các cộng đồng thổ dân lập gần 60.000 năm trước khi người châu Âu. Hôm nay, Úc là một trong những nước đa văn hóa của thế giới, phong phú về các nền văn hóa bản địa và người nhập cư.
Trong gần hai thế kỷ, phần lớn những người định cư, và sau đó là những người nhập cư, đến Úc từ Quần đảo Anh. Do vậy, người dân Úc chủ yếu có nguồn gốc dân tộc đảo Anh và/hoặc Ireland. Điều tra dân số năm 2011 yêu cầu cung cấp tối đa hai nguồn gốc mà họ nhận thấy gần gũi nhất, các tổ tiên được trả lời phổ biến nhất là người Anh (36,1%), sau đó là người Úc (35,4%), người Ireland (10,4%), người Scotland (8,9%), người Ý (4,6%), người Đức (4,5%), người Hoa (4,3%), người Ấn Độ (2,0%), người Hy Lạp (1,9%), và người Hà Lan (1,7%). Người Úc gốc châu Á chiếm 12% dân số.
Dân số Úc năm 2016 theo ước lượng là 24.243.622 chiếm hạng 51 thế giới và được dự đoán lên đến khoảng 42 triệu người vào năm 2050. Dân số Úc tăng gấp bốn lần kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Tuy vậy, mật độ dân số 2,8 người/km² của Úc vẫn nằm trong hàng thấp nhất trên thế giới. Phần lớn gia tăng dân số bắt nguồn từ nhập cư.
Năm 2011, 24,6% người Úc sinh ra tại các quốc gia khác và 43,1% cư dân có ít nhất một cha mẹ sinh ra tại hải ngoại. Theo điều tra dân số năm 2011, các nhóm nhập cư lớn nhất là những người đến từ Anh Quốc, New Zealand, Trung Quốc, Ấn Độ, Ý, Việt Nam và Philippines. Trên 80% dân số Úc có nguồn gốc châu Âu, và hầu hết những người còn lại có nguồn gốc châu Á, cùng một thiểu số nhỏ hơn là thổ dân.
Cùng với nhiều quốc gia phát triển khác, Úc đang phải trải qua một cuộc biến đổi nhân khẩu học theo hướng dân số già hơn, có thêm nhiều người nghỉ hưu và ít người trong độ tuổi làm việc hơn. Năm 2004, tuổi trung bình của cư dân Úc là 38,8 tuổi.
Canada là một liên bang gồm có mười tỉnh và ba lãnh thổ. Theo hiến pháp Canada, giáo dục thuộc trách nhiệm của chính quyền các tỉnh (bang). Do đó, không có một hệ thống đồng nhất các quy định về giáo dục. Tuy nhiên nhìn chung cũng không có sự khác biệt lớn về cách tổ chức trường lớp hay thời gian học các cấp. Hệ thống giáo dục Canada bao gồm các trường công lập và tư thục từ mẫu giáo đến cao đẳng. Ở cấp đại học, hầu hết các trường đều là công lập, vì thế chất lượng giáo dục trên khắp đất nước đều ngang bằng nhau.
Nhìn chung, năm học bắt đầu từ tháng 9 tới tháng 6. Học sinh vào lớp 1 lúc 6 tuổi. Các trường tiểu học dạy từ lớp 1 đến lớp 6. Các trường trung học bao gồm từ lớp 7 đến lớp 11, 12, hoặc 13 tùy theo tỉnh. Từ đây học sinh có thể theo học cao đẳng , Cao đẳng chuyên nghiệp Cé gep hay đại học. Cé gep dạy hai năm phổ thông hoặc đào tạo nghề trong 3 năm giữa bậc trung học và đại học, chỉ riêng tỉnh Quebec có hệ thống Cé gep này. Tại các tỉnh nói tiếng Anh của Canada, các trường cao đẳng được biết đến dưới nhiều thứ tên gọi khác nhau: Cao đẳng cộng đồng (community college), học viện kỹ thuật (technical institutes), cao đẳng đại học (University College).
Có nhiều trường trung học công lập và tư thục ở Canada. Tại các trường này, học sinh có thể lựa chọn một chương trình kết hợp văn hóa và tiếng Anh. Phần đông các trường trung học không đòi hỏi khả năng ngoại ngữ của du học sinh, miễn là du học sinh có điểm học văn hóa tốt. Khi bắt đầu vào trường du học sinh sẽ được thi trắc nghiệm Anh ngữ để trường xác định xem có cần học thêm Anh ngữ ngoài các môn học văn hóa không.
- Trung Học Tư Thục (Private Secondary School): Các trường trung học tư thục có mặt ở khắp các tỉnh. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và kinh doanh nổi tiếng của Canada đã tốt nghiệp từ các trường tư thục này. Tất cả các trường tư thục đều phải đăng ký với Bộ Giáo Dục tỉnh hay lãnh thổ của họ và phải đáp ứng các tiêu chuẩn về giáo trình và các tiêu chuẩn khác do các bộ liên quan quy định. Phụ huynh học sinh có thể chọn trường dành riêng cho nam, dành riêng cho nữ hoặc cả nam và nữ cho con em mình. Nhiều trường tư thục có chương trình nội trú (boarding) toàn diện, bảo đảm cho phụ huynh yên tâm trong thời gian con em mình du học. Nhiều trường khác chỉ có chương trình ban ngày và một số trường có cả hai loại chương trình này.
- Trung Học Công Lập (Public Secondary School): Nhiều trường công lập Canada hiện nay đã thu nhận học sinh quốc tế và khuynh hướng này ngày càng phát triển. Trường công lập được quản lý ở cấp đại phương do các Hội Đồng Giáo Dục (School Board) được bầu ra. Các chính sách về việc nhận học sinh quốc tế và thu học phí khác nhau tùy theo tỉnh. Một số trường trung học cũng có chương trình chứng chỉ quốc tế (International Baccalaureat – IB). IB được công nhận ở khắp Bắc Mỹ, tương đương với năm thứ nhất đại học. Học sinh đạt điểm cao trong các môn học Ib thường sẽ được các đại học công nhận khi chuyển lên đại học.
Ảnh: Canada không có một hệ thống giáo dục đồng nhất.
Có 175 cơ sở giáo dục sau trung học là thành viên của Hiệp Hội Các Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Canada (ACCC). Các trường cao đẳng này được biết đến qua một loạt danh hiệu như: cao đẳng cộng đồng, học viện kỹ thuật, cao đẳng đại học và Cé gep. Tất cả các cơ sở giáo dục này là đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh doanh, cong nghiệp, dịch vụ cong cộng và đáp ứng nhu cầu học tập của các học sinh tốt nghiệp phổ thông có định hướng nghề nghiệp, các sinh viên tốt nghiệp đại học đang tìm kiếm việc làm cũng như yêu cầu học tập thường xuyên của người lớn tuổi.
Trong thực tế có rất nhiều sinh viên đã tốt nghiệp đại học theo học cao đẳng để hoàn thành kỹ năng chuyên môn của mình. Nhìn chung, các trường cao đẳng có giáo trình giảng dạy chuyên sâu về nghề nghiệp nhiều hơn là các đại học, với các lớp học sĩ số nhỏ, có các khóa học thực tập bên ngoài trường, không gian lớp học và phòng lab thông thoáng, cách giảng dạy tác động qua lại và luôn có nhiều cấp độ nhập học khác nhau từ các ngành kỹ thuật cho đến các ngành nghệ thuật sáng tạo. Các trường cao đẳng là các trung tâm đào tạo xuất sắc về nhiều lĩnh vực như công nghệ thông tin, quặng mỏ, môi trường, khách sạn và du lịch. Các chương trình học toàn thời gian và bán thời gian khác bao gồm y tế, kinh doanh, nâng cao trình độ văn hóa, nghệ thuật ứng dụng, dịch vụ xã hội, … Trường cao đẳng là cơ sở giáo dục năng động, thường xuyên thay đổi để đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội của cộng đồng.
- Cao Đẳng Đại Học (University College): Trường cao đẳng đại học như tên gọi của nó là sự kết hợp giữa trường cao đẳng và đại học Canada. Học sinh theo học có thể chọn theo một chương trình văn hóa trong hai năm sau đó chuyển tiếp lên đại học, hoặc học 2-3 năm rồi tốt nghiệp với một bằng cấp chuyên môn. Các trường cao đẳng đại học thường thiết lập với một số trường đại học trong vùng để kết hợp chương trình chuyển tiếp của mình. Tại đây sinh viên sẽ học tiếp nối 2 năm cuối của chương trình đại học 4 năm.
- Cao Đẳng Cộng Đồng (Community College): Cao đẳng cộng đồng là loại trường phổ biến ở Canada có các chương trình đào tạo nghề chuyên môn từ 1 đến 3 năm (bao gồm cả thời gian thực tập). Một vài trường cao đẳng cộng đồng dạy nghề còn có chương trình chuyển tiếp đại học, cho phép học sinh theo học các khóa học tương đương với hai năm đầu của chương trình đại học 4 năm. Sau đó, học sinh tiếp tục học 2 năm cuối tại trường đại học để hoàn tất chương trình đại học.
- Các Chương Trình Chuyển Tiếp Đại Học (University Transfer Program) Học sinh muốn lấy bằng đại học có thể hoàn thành hai năm học đầu tiên tại trường cao đẳng cộng đồng hoặc trường cao đẳng đại học và nhận các tín chỉ (credit). Hầu hết các tín chỉ này đều có thể chuyển tiếp lên các trường đại học như năm thứ nhất và thứ hai của đại học. Tuy nhiên học sinh phải kiểm tra kỹ khi chọn các khóa học cho phù hợp với ngành dự định theo học ở đại học. Mặt khác hoàn thành chương trình chuyển tiếp đại học không có nghĩa là tự động được nhận vào học chương trình đại học, học sinh cụng cần phải đáp ứng các điều kiện nhập học của đại học liên hệ. Riêng ở tỉnh Quebec, học sinh quốc tế có thể theo học một trường cao đẳng gọi là Cé gep. Đối với học sinh đã tốt nghiệp trung học phổ thông, Cé gep có các chương trình chuyển tiếp hai năm lên đại học hoặc các chương trình chuyển tiếp kỹ thuật ba năm để đi làm.
- Trường Cao Đẳng Nghề (Technical Institute/Career College) Là cơ sở giáo dục tư nhân có các giáo trình cung cấp cho học sinh những kỹ năng thực tiễn cho thị trường việc làm sau một thời gian đào tạo ngắn. Các học sinh muốn tìm các chương trình đào tạo ngắn hạn trong các nghề như điện ảnh, tin học, internet, thiết kế đồ họa, du lịch khách sạn,..có thể xin theo học các trường cao đẳng dạy nghề. Mặc dù do tư nhân làm chủ, các trường này do tỉnh quy dịnh và công nhận để đảm bảo các tiêu chuẩn về chương trình học và chất lượng luôn được duy trì.
Canada có trên 95 trường đại học nổi tiếng thế giới về chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Vì thế , bằng cấp của Canada được công nhận trên khắp thế giới. Các trường đại học Canada được nhà nước tài trợ trên quy mô lớn và đều có chất lượng cao, không phân biệt đại điểm hay ngành học, số lượng sinh viên học toàn thời gian tại mỗi trường từ 1.000 cho đến trên 35.000. Các trường này có nhiều loại hình đào tạo và cấp đủ loại văn bằng từ cử nhân, kỹ sư cho đến tiến sĩ, kể cả chứng chỉ và diploma chuyên môn. Học phí tùy thuộc vào mỗi tỉnh, mỗi trường và mỗi chương trình học. Năm học ở đại học thường bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 5. Một số trường theo hệ thống 2 hoặc 3 học kỳ kể cả mùa hè. Ở Canada không có kỳ thi thi tuyển sinh đại học chung mà chỉ xét tuyển nhập học, mỗi trường đề ra tiêu chuẩn nhập học riêng và xét hồ sơ theo từng trường hợp cụ thể.
Canada có hai ngôn ngữ chính thức, học sinh quốc tế có thể đến Canada để học tập bằng tiếng Anh (ESL) hoặc bằng tiếng Pháp như là sinh ngữ hai (FSL). Nhiều người chọn học bằng tiếng Anh ở Canada do có nhiều trường dạy tiếng Anh xuất sắc và do giọng Canada trung hòa dễ nghe. Nhiều năm qua, Canada đã phát triển chuyên môn rất cao trong giảng dạy tiếng Anh do có nhiều dân nhập cư muốn nâng cao kỹ năng tiếng Anh của họ Học sinh quốc tế có thể theo học tiếng Anh phổ thông, thương mại hoặc cho mục đích riêng. Ngoài ra học sinh cũng có thể được đào tạo để giảng dạy môn tiếng Anh. Nói chung các trường tư thục dạy tiếng Anh đều linh động về học kỳ, chương trình và lịch nhập học theo yêu cầu hơn các trung tâm sinh ngữ của đại học và cao đẳng.
Hầu hết các trường dạy tiếng Pháp đều ở tỉnh Quebec, tương tự như các chương trình dạy tiếng Anh, học sinh có thể theo học chương trình tiếng Pháp vào bất cứ lúc nào. Riêng các du học sinh ghi danh chương trình tiếng Pháp hoặc tiếng Anh trong thời gian ít hơn 6 tháng có đến học ở Canada bằng visa du lịch.
Canada cũng có chính sách tặng học bổng, giài thưởng hay cho sinh viên vay tiền để học, nhưng chủ yếu dành cho sinh viên Canada hay thường trú nhân (permanent resident). Các khoản hỗ trợ này hiếm khi đủ để trang trải toàn bộ chi phí học tập và sinh viên thường vẫn phải đi làm thêm để bù đắp chi phí sinh hoạt. Học bổng dành cho học sinh quốc tế cũng có tại một số trường Canada, phần lớn là các trường đại học dành cho những học sinh có học lực xuất sắc.
Nhiều tổ chức của Canada cũng trao tặng học bổng cho du học sinh, nghiên cứu sinh quốc tế nhưng những học bổng này thường dành cho các sinh viên sau đại học và các vị giáo sư đang học tập hoặc nghiên cứu đề tài đặc biệt. Trong vài năm gần đây, một số trường đại học Canada cũng có học bổng giá trị dành cho sinh viên Việt Nam theo học trong năm đầu tiên (entrance scholarship). Học bổng Canada cũng được cấp thông qua một số hiệp định song phương giữa Canada, tỉnh Quebec, tổ chức Pháp ngữ và chính phủ Việt Nam.
Văn hóa Canada rút ra từ những ảnh hưởng của các dân tộc thành phần, và các chính sách nhằm thúc đẩy đa nguyên văn hóa được bảo vệ theo hiến pháp. Québec là nơi có bản sắc mạnh hóa mạnh, và nhiều nhà bình luận nói tiếng Pháp nói về một văn hóa Québec khác biệt với văn hóa Canada Anh ngữ. Tuy nhiên, về tổng thể, Canada ở trong thuyết một khảm văn hóa - một tập hợp của vài tiểu văn hóa vùng miền, thổ dân, và dân tộc.[209] Các chính sách của chính phủ như tài trợ công khai chăm sóc sức khỏe, áp thuế cao hơn để tái phân phối của cải, xóa bỏ tử hình, những nôc lự mạnh mẽ nhằm loại trừ nghèo khổ, kiểm soát súng nghiêm ngặt, và hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính là những chỉ thị xã hội hơn nữa của các giá trị chính trị và văn hóa Canada.
Về mặt lịch sử, Canada chịu ảnh hưởng của các văn hóa và truyền thống Anh Quốc, Pháp, và thổ dân. Thông qua ngôn ngữ, nghệ thuật và âm nhạc, các dân tộc thổ dân tiếp tục có ảnh hưởng đến bản sắc Canada. Nhiều người Canada xem trọng đa nguyên văn hóa và nhìn nhận Canada vốn đã đa nguyên văn hóa. Truyền thông và giải trí Mỹ phổ biến, nếu không nói là chi phối tại Canada. Ngược lại, nhiều văn hóa phẩm và nghệ sĩ giải trí của Canada thành công tại Hoa Kỳ và toàn cầu. Việc duy trì một văn hóa Canada riêng biệt được chính phủ ủng hộ thông qua các chương trình, các đạo luật, và các thể chế như Công ty Phát thanh - Truyền hình Canada (CBC), Cục Điện ảnh Quốc gia Canada (NFB), và Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada (CRTC).
Nghệ thuật thị giác Canada chịu sự chi phối của các cá nhân như Tom Thomson – họa sĩ nổi tiếng nhất của quốc gia – hay Group of Seven (nhóm 7 họa sĩ). Sự nghiệp hội họa phong cảnh Canada của Tom Thomson kéo dài một thập kỷ cho đến khi ông mất vào năm 1917 ở tuổi 39. Group of Seven là các họa sĩ mang một tiêu điểm dân tộc chủ nghĩa và duy tâm chủ nghĩa, họ trưng bày các tác phẩm đặc biệt của mình lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1920. Mặc dù theo tên gọi thì có nghĩa là có bảy thành viên, song năm họa sĩ – Lawren Harris, A. Y. Jackson, Arthur Lismer, J. E. H. MacDonald, và Frederick Varley – chịu trách nhiệm về khớp nối các ý tưởng của Nhóm. Frank Johnston, và Franklin Carmichael cũng từng tham gia Nhóm. A. J. Casson trở thành một phần của Nhóm vào năm 1926. Một nghệ sĩ Canada nổi tiếng khác cũng liên kết với Group of Seven, đó là Emily Carr, bà được biết đến với các bức họa phong cảnh và chân dung về những người bản địa tại vùng Duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương. Kể từ thập niên 1950, các tác phẩm nghệ thuật Inuit được chính phủ Canada dùng làm quà tặng cho giới chức ngoại quốc cấp cao.
Ngành công nghiệp âm nhạc của Canada sản sinh ra những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, ban nhạc nổi tiếng ở tầm quốc tế. Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada quy định về âm nhạc phát sóng trong nước. Viện Hàn lâm Canada về Nghệ thuật và Khoa học Ghi âm trao giải thưởng Juno cho các thành tựu trong ngành công nghiệp âm nhạc Canada, giải được trao thưởng lần đầu tiên vào năm 1970. Âm nhạc ái quốc tại Canada đã có từ trên 200 năm, khi đó là một thể loại riêng biệt với chủ nghĩa ái quốc Anh Quốc, trên 50 năm trước khi có các bước pháp lý đầu tiên hướng đến độc lập. Tác phẩm ái quốc sớm nhất là The Bold Canadian (người Canada Dũng cảm), được viết vào năm 1812. Quốc ca của Canada là "O Canada" ban đầu do Phó tổng đốc Québec Théodore Robitaille đặt sáng tác cho ngày lễ Thánh Jean-Baptiste năm 1880, và được chấp thuận chính thức vào năm 1980. Calixa Lavallée là người viết nhạc, phổ theo một bài thơ ái quốc do Adolphe-Basile Routhier sáng tác. Nguyên bản lời bài chỉ viết bằng tiếng Pháp, rồi được dịch sang tiếng Anh vào năm 1906.
Các môn thể thao có tổ chức tại Canada khởi đầu từ thập niên 1770. Các môn thể thao quốc gia chính thức của Canada là khúc côn cầu trên băng và bóng vợt. Bảy trong số tám vùng đô thị lớn nhất của Canada - Toronto, Montréal, Vancouver, Ottawa, Calgary, Edmonton và Winnipeg - có câu lạc bộ có tư cách tham gia Giải khúc côn cầu Quốc gia (NHL). Các môn thể thao đông khán giả khác tại Canada gồm có bi đá trên băng và bóng đá Canada; giải vô địch bóng đá [kiểu Canada] Canada (CFL) là giải đấu chuyên nghiệp. Golf, quần vợt, bóng chày, trượt tuyết, cricket, bóng chuyền, bóng bầu dục kiểu liên hiệp, bóng đá và bóng rổ được chơi nhiều trong giới thanh thiếu niên và ở mức nghiệp dư, song các giải đấu chuyên nghiệp không phổ biến. Canada có một đội tuyển bóng chày chuyên nghiệp là Toronto Blue Jays, và một đội tuyển bóng rổ chuyên nghiệp là Toronto Raptors. Canada tham gia vào hầu như mọi kỳ Thế vận hội kể từ lần đầu tham gia vào năm 1900, và từng tổ chức một số sự kiện thể thao quốc tế cao cấp, bao gồm Thế vận hội Mùa hè 1976 tại Montréal, Thế vận hội Mùa đông 1988 tại Calgary, Thế vận hội Mùa đông 2010 tại Vancouver và Giải vô địch bóng chày thế giới 1994 và Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2007.
Biểu tượng của Canada là lá phong - tượng trưng cho sức mạnh, văn hóa và lịch sử lâu đời của quốc gia này. Lá phong được chính thức coi là biểu tượng của Canada từ đầu thế kỷ 18. Sau đó nó xuất hiện rộng rãi trên Quốc kỳ, đồng xu và cả huy chương của Canada. Các biểu tượng khác của quốc gia này cũng khá nổi tiếng là con hải ly, con ngỗng Canada, vương miện, cột gỗ.
Canada là quốc gia có diện tích lớn thứ hai trên thế giới, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lãnh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương từ phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ liền kề; về phía tây bắc, Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. Ở phía đông bắc của Canada là đảo Greenland thuộc Vương quốc Đan Mạch. Ở ngoài khơi phía nam đảo Newfoundland của Canada có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon thuộc Pháp. Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới.
Đất nước Canada là một liên bang bao gồm mười tỉnh và ba vùng lãnh thổ. Các đơn vị hành chính này có thể được nhóm thành bốn vùng chính: Tây bộ Canada, Trung bộ Canada, Canada Đại Tây Dương, và Bắc bộ Canada. Các tỉnh có quyền tự trị lớn hơn các lãnh thổ, chịu trách nhiệm đối với các chương trình xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục, và phúc lợi. Tổng thu nhập của các tỉnh nhiều hơn của chính phủ liên bang. Sử dụng quyền hạn chi tiêu của mình, chính phủ liên bang có thể bắt đầu các chính sách quốc gia tại các tỉnh, như Đạo luật Y tế Canada; các tỉnh có thể chọn ở ngoài chúng, song hiếm khi làm vậy trên thực tế. Chính phủ liên bang thực thi thanh toán cân bằng nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống nhất hợp lý về các dịch vụ và thuế được thi hành giữa các tỉnh.
Ottawa là thủ đô và cũng là thành phố lớn thứ tư của Canada tọa lạc tỉnh bang Ontario. Ottawa nằm trong thung lũng sông Ottawa phía bờ Đông của tỉnh bang Ontario, cách Toronto 400 km về phía Đông Bắc và Montréal 190 km về phía Tây. Ottawa nằm trải dài theo bờ sông Ottawa, đường thủy chủ yếu ngăn cách tỉnh bang Ontario và Québec.
Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11 thế giới. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng cuộc sống, và tự do kinh tế. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: G8, G20, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Nhiệt độ tối cao trung bình mùa đông và mùa hè tại Canada khác biệt giữa các khu vực. Mùa đông có thể khắc nghiệt tại nhiều nơi của quốc gia, đặc biệt là trong vùng nội địa và các tỉnh thảo nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa với nhiệt độ trung bình ngày là gần −15 °C (5 °F), song có thể xuống dưới −40 °C (−40 °F) với các cơn gió lạnh dữ dội.[88] Tại các vùng không nằm ven biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng mỗi năm, trong khi các phần ở phía bắc có thể dai dẳng quanh năm. British Columbia Duyên hải có một khí hậu ôn hòa, với một mùa đông ôn hòa và mưa nhiều. Ở các vùng bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ tối cao trung bình thường là dưới hai mươi mấy độ C, trong khi tại lãnh thổ giữa các vùng bờ biển thì nhiệt độ tối cao vào mùa hạ biến động từ 25 đến 30 °C (77 đến 86 °F), nhiệt độ tại một số nơi ở nội địa thỉnh thoảng vượt quá 40 °C (104 °F).
Các tỉnh và lãnh thổ của Canada chịu trách nhiệm về giáo dục. Độ tuổi bắt buộc đến trường có phạm vi từ 5–7 đến 16–18 tuổi, tỷ lệ người trưởng thành biết chữ là 99%. Năm 2011, 88% người trưởng thành có tuổi từ 25 đến 64 đã đạt được trình độ tương đương tốt nghiệp trung học, trong khi tỷ lệ chung của Tổ Chức Hợp Tác Và Phát Triển Kinh Tế OECD là 74%. Năm 2002, 43% người Canada từ 25 đến 64 tuổi sở hữu một nền giáo dục sau trung học; trong độ tuổi từ 25 đến 34, tỷ lệ giáo dục sau trung học đạt 51%. Theo một tường thuật của NBC năm 2012, Canada là quốc gia có giáo dục nhất trên thế giới. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) chỉ ra rằng học sinh Canada biểu hiện tốt hơn mức trung bình của OECD, đặc biệt là trong toán học và khoa học.
Canada có hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Pháp, theo điều 16 của Hiến chương Canada về Quyền lợi và Tự do và Đạo luật ngôn ngữ chính thức của Liên bang. Chính phủ Canada thực hiện song ngữ chính thức, do Uỷ viên hội đồng các ngôn ngữ chính thức chấp hành. Tiếng Anh và tiếng Pháp có địa vị ngang nhau trong các tòa án liên bang, Nghị viện, và trong toàn bộ các cơ quan liên bang. Các công dân có quyền, ở nơi đủ nhu cầu, nhận các dịch vụ của chính phủ liên bang bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, và các ngôn ngữ thiểu số có địa vị chính thức được đảm bảo có trường học sử dụng chúng tại tất cả các tỉnh và lãnh thổ.
Tiếng Anh và tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ nhất của lần lượt 59,7 và 23,2 phần trăm dân số Canada. Xấp xỉ 98% người Canada có thể nói tiếng Anh hoặc tiếng Pháp: 57,8% chỉ nói tiếng Anh, 22,1% chỉ nói tiếng Pháp, và 17,4% nói cả hai ngôn ngữ. Các cộng đồng ngôn ngữ chính thức tiếng Anh và tiếng Pháp, được xác định bằng ngôn ngữ chính thức thứ nhất được nói, tương ứng chiếm 73% và 23,6% dân số.
Hiến chương Pháp ngữ 1977 xác định tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của Québec. Mặc dù hơn 85% số người Canada nói tiếng Pháp sống tại Québec, song cũng có dân số Pháp ngữ đáng kể tại Ontario, Alberta, và nam bộ Manitoba; Ontario là tỉnh có nhiều dân số Pháp ngữ nhất bên ngoài Québec. New Brunswick là tỉnh chính thức song ngữ duy nhất, có cộng đồng thiểu số Acadia nói tiếng Pháp chiếm 33% dân số. Cũng có các nhóm người Acadia tại tây nam bộ Nova Scotia, trên đảo Cape Breton, và qua trung bộ và tây bộ đảo Prince Edward. Các tỉnh khác không có ngôn ngữ chính thức như vậy, song tiếng Pháp được sử dụng như một ngôn ngữ trong giảng dạy, trong tòa án, và cho các dịch vụ chính quyền khác, cùng với tiếng Anh. Manitoba, Ontario, và Québec cho phép nói cả tiếng Anh và tiếng Pháp tại các cơ quan lập pháp cấp tỉnh, và các đạo luật được ban hành bằng cả hai ngôn ngữ. Tại Ontario, tiếng Pháp có một số địa vị pháp lý, song không hoàn toàn là ngôn ngữ đồng chính thức.
Có 11 nhóm ngôn ngữ Thổ dân, bao gồm hơn 65 phương ngôn riêng biệt. Trong số đó, chỉ có Cree, Inuktitut và Ojibway là có số người nói thành thạo đủ lớn để được xem là có thể sinh tồn trường kỳ. Một vài ngôn ngữ thổ dân có địa vị chính thức tại Các Lãnh thổ Tây Bắc. Inuktitut là ngôn ngữ chính tại Nunavut, và là một trong ba ngôn ngữ chính thức tại lãnh thổ này. Năm 2011, gần 6,8 triệu người Canada kê khai ngôn ngữ mẹ đẻ của họ là một ngôn ngữ phi chính thức. Một số ngôn ngữ thứ nhất phi chính thức thông dụng nhất là tiếng Trung Quốc (chủ yếu là tiếng Quảng Đông; 1.072.555 người), Punjab (430.705), Tây Ban Nha (410.670), Đức (409.200), và Ý (407.490).
Điều tra dân số Canada năm 2011 đưa ra số liệu tổng dân số 33.476.688, tăng khoảng 5,9% so với số liệu năm 2006. Tháng 12 năm 2012, Cơ quan Thống kê Canada báo cáo dân số trên 35 triệu. Khoảng bốn phần năm dân số Canada sống cách với biên giới Hoa Kỳ dưới 150 kilômét (93 mi). Xấp xỉ 80% người Canada sống tại các khu vực đô thị tập trung tại hành lang thành phố Québec - Windsor, Lower Mainland tại British Columbia, và hành lang Calgary - Edmonton tại Alberta.
Giống như các quốc gia phát triển khác, Canada đang trải qua biến đổi nhân khẩu học theo hướng dân số già hơn, với nhiều người nghỉ hưu hơn và ít người trong độ tuổi lao động hơn. Năm 2006, tuổi trung bình của cư dân Canada là 39,5; năm 2011, con số này tăng lên xấp xỉ 39,9. Năm 2013, tuổi thọ bình quân của người Canada là 81.
Theo điều tra dân số năm 2006, nguồn gốc dân tộc tự thuật lớn nhất là người Canada (chiếm 32% dân số), tiếp theo là người Anh (21%), người Pháp (15,8%), người Scoltand (15,1%), người Ireland (13,9%), người Đức (10,2%), người Ý (4,6%), người Hoa (4,3%), người Dân tộc Trước tiên (4,0%), người Ukraina (3,9%), và người Hà Lan (3,3%).
Có 600 nhóm Dân tộc Trước tiên được công nhận, với tổng số 1.172.790 người. Dân số thổ dân của Canada đang tăng trưởng gần gấp hai lần tỷ lệ bình quân toàn quốc, và 4% dân số Canada tuyên bố họ có đặc tính thổ dân trong năm 2006. 16,2% dân số khác thuộc một nhóm thiểu số hữu hình (visible minority) phi thổ dân.
Năm 2006, các nhóm thiểu số hữu hình lớn nhất là người Nam Á (4,0%), người Hoa (3,9%) và người Da đen (2,5%). Từ năm 2001 đến năm 2006, dân số dân tộc thiểu số hữu hình tăng trưởng 27,2%. Năm 2007, gần một phần năm (19,8%) người Canada sinh ra tại nước ngoài, với gần 60% tân di dân đến từ châu Á (gồm cả Trung Đông).
Các nguồn nhập cư dẫn đầu đến Canada hiện là Trung Quốc, Philippines và Ấn Độ. Theo cục Thống kê Canada, các nhóm thiểu số hữu hình có thể chiếm một phần ba dân số Canada vào năm 2031. Canada là một trong những quốc gia có tỷ lệ người nhập cư bình quân cao nhất thế giới, được thúc đẩy từ chính sách kinh tế và đoàn tụ gia đình. Một thống kê cho biết có 280.636 người nhập cư đến Canada trong năm 2010. Chính phủ Canada dự tính có từ 240.000 đến 265.000 cư dân thường trú mới vào năm 2013, một con số người nhập cư tương tự như trong những năm gần đây. Những người mới nhập cư chủ yếu định cư tại các khu vực đô thị lớn như Toronto và Vancouver. Canada cũng chấp nhận một lượng lớn người tị nạn chiếm hơn 10% tái định cư người tị nạn toàn cầu mỗi năm.
Canada là quốc gia có tôn giáo đa dạng, bao gồm nhiều tín ngưỡng và phong tục. Theo điều tra năm 2011, 67,3% người Canada nhận là tín đồ Ki-tô giáo; trong đó Công giáo La Mã là nhóm lớn nhất với 38,7% dân số. Các giáo phái Tin Lành lớn nhất là Giáo hội Hiệp đồng Canada (6,1% người Canada), tiếp theo là Anh giáo (5,0%), và Báp-tít (1,9%). Năm 2011, khoảng 23,9% cư dân Canada tuyên bố không theo tôn giáo, so với 16,5% vào năm 2001, 8,8% dân số còn lại là tín đồ của các tôn giáo phi Ki-tô, lớn nhất trong đó là Hồi giáo (3,2%) và Ấn Độ giáo (1,5%).
Theo luật di trú Hoa Kỳ, người ngoại quốc có thị thực hợp lệ được cấp phép đến lãnh thổ Hoa Kỳ để làm thủ tục nhập cảnh tại các cửa khẩu. Tuy nhiên viên chức Cục Hải Quan và Bảo vệ Biên Giới Hoa Kỳ (CBP) có quyền xem xét cho nhập cảnh hoặc từ chối nhập cảnh (1). Điều này có nghĩa là cho dù bạn có visa hợp lệ cũng không đảm bảo được rằng bạn chắc chắn sẽ được nhập cảnh vào Hoa Kỳ.
Trong năm 2016, CBP cho biết đã có 752 trường hợp bị từ chối nhập cảnh Mỹ, trong khi năm 2015 chỉ có 367 trường hợp. Do đó, các bạn du học sinh nên chuẩn bị cho việc nhập cảnh Mỹ một cách chu đáo, cho dù đó là lần đầu tiên các bạn đến Mỹ hoặc quay trở lại Mỹ sau một kỳ nghỉ hè. Để tránh các sự cố đáng tiếc, các bạn nên chuẩn bị mang theo đầy đủ các tài liệu như hướng dẫn bên dưới trước khi rời khỏi Việt Nam:
Ngoại trừ hộ chiếu và thị thực, nếu các bạn quên mang theo các tài liệu khác thì cũng đừng quá hoảng sợ. Các viên chức Cục Hải Quan và Bảo vệ Biên Giới (CBP) có thể tiến hành phỏng vấn để xem xét cấp cho bạn một mẫu đơn I-515A "Notice to Student or Exchange Visitor"(2) và cho phép bạn nhập cảnh vào Mỹ trong vòng 30 ngày. Trong thời hạn 30 ngày đó, bạn phải nộp các tài liệu còn thiếu cho bộ phận xử lý hồ sơ I-515A. Chỉ khi bạn không nộp các hồ sơ được yêu cầu đúng thời hạn, bạn mới bị mất tình trạng cư trú hợp pháp và sẽ phải rời khỏi Hoa Kỳ.
Tại sân bay đầu tiên của Hoa Kỳ, viên chức Cục Hải Quan và Bảo Vệ Biên Giới (CBP) thường tiến hành phỏng vấn nhanh mọi du học sinh, đây là hoạt động nghiệp vụ thường ngày của CBP. Tùy theo nội dung của cuộc phỏng vấn và các bằng chứng cụ thể (3), viên chức CBP có thể từ chối cấp phép nhập cảnh theo điều luật INA § 212(a)(7)(A)(i)(I) vì người nhập cảnh “có dự định đến Mỹ với mục đích định cư”, trong năm 2018 CBP cho biết đã có 764 trường hợp bị từ chối nhập cảnh Mỹ (4) với lý do trên. Một số câu hỏi thường gặp trong buổi phỏng vấn của viên chức CBP đối với du học sinh như sau:
- What is the purpose of your trip to the United States of America today?
- How long are you going to stay on this trip?
- What school are you currently attending?
- How long have you been attending this school?
- When will you start taking classes?
- Have you paid tuition for upcoming semester?
- How much will it cost?
- How much cash are you carrying with you today?
- How do you get the money to pay for tuition?
- Have you ever worked off-campus during your studies?
- How much do you get paid per hour?
- How many hours per week do you work?
- How many days per week do you work?
- How long have you been employed there?
- Have you ever applied for work authorization from your school?
Hãy tìm hiểu chặt chẽ các luật di trú cơ bản áp dụng cho du học sinh trước chuyến đi như duy trì tình trạng, chuyển trường hợp lệ, làm việc hợp pháp ... để tránh nguy cơ bị CBP từ chối nhập cảnh.
Thhông tin tham chiếu:
(1) https://travel.state.gov/content/travel/en/us-visas.html
(2) https://studyinthestates.dhs.gov/what-is-a-form-i-515a
(3) https://studyinthestates.dhs.gov/what-is-secondary-inspection
(4) https://www.cbp.gov/newsroom/stats/typical-day-fy2018
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.
Sau khi học sinh đã được cấp visa du học Mỹ, nếu học sinh có nguyện vọng chuyển trường với bất cứ lý do gì đều là quyền của học sinh và thường được các trường nhiệt tình hỗ trợ. Các trường được cấp phép (SEVP Certified Schools) tại Mỹ đều áp dụng chung 1 quy trình chuyển trường hợp lệ và học sinh cần phải thực hiện đúng các bước theo trình tự như sau:
Công ty tư vấn du học Thế Hệ Mới cung cấp dịch vụ miễn phí cho các du học sinh chuyển đến học tại các trường do công ty tư vấn du học Thế Hệ Mới làm đại diện tuyển sinh chính thức.
Nguồn thông tin:
- https://www.ice.gov/sevis/schools/reg#f8
Nếu quý khách có yêu cầu hỗ trợ về vấn đề chuyển trường, xin vui lòng liên hệ với các văn phòng của Công Ty Tư Vấn Du Học Thế Hệ Mới:
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.
Trong vòng 50 năm qua, tổ chức giáo dục ELS đã giúp hơn 1 triệu sinh viên từ 175 quốc gia trên thế giới theo học tiếng Anh. ELS có hơn 80 trung tâm dạy Anh ngữ trên toàn thế giới, bao gồm khoảng 60 trung tâm tại Mỹ, Canada và Úc, trong đó hơn 50 trung tâm đặt trong khuôn viên các trường đại học lớn. ELS cung cấp cho sinh viên các lựa chọn học tập đa dạng từ các chương trình tiếng Anh tổng quát, tiếng Anh học thuật, tiếng Anh quản trị, thi các chứng chỉ quốc tế, các chương trình tiếng Anh kết hợp du học hè cho thanh thiếu niên.
Dựa trên kinh nghiệm lâu năm, ELS đã xây dựng được chương trình học đặc biệt bao gồm cả sách giáo khoa và phần mềm học tiếng Anh ưu việt để giúp sinh viên sử dụng thuần thục tiếng Anh.Với phương pháp giảng dạy đã được kiểm định và công nhận, đội ngũ giảng viên trình độ cao, và chương trình học được thiết kế 12 cấp độ từ cơ bản đến nâng cao, ELS đảm bảo mang tới cho bạn thành công trong học tập.
Trụ sở chính đặt tại Princeton, New Jersey, ELS là đơn vị tuyển sinh viên quốc tế lớn nhất cho các trường Đại học, Cao đẳng và các chương trình Sau đại học của Mỹ và Canada. Hơn 650 trường đại học của Mỹ và Canada công nhận sinh viên hoàn thành chương trình tiếng Anh cấp độ 112 của ELS là đủ điều kiện tiếng Anh để được nhập học thẳng vào các chương trình đại học và cao học thay cho bài thi TOEFL và IELTS.
Hầu hết các giảng viên kinh nghiệm của ELS đều là thành viên của tổ chức TESOL. Tính từ năm 2007, các giảng viên và nhân viên tại ELS đã đóng góp hơn 40 bài báo cáo tham luận tại Hội nghị quốc tế thường niên của tổ chức TESOL. ELS là tổ chức có số thành viên đông nhất tham gia NAFSA, Liên hiệp các nhà giáo dục quốc tế. Đồng thời các giảng viên tại ELS, Giám đốc các trung tâm ELS, và nhân viên ELS cũng đảm trách nhiều vị trí trong các văn phòng và ủy ban thành viên của các tổ chức như TESOL, NAFSA cùng nhiều tổ chức nghề nghiệp khác, đóng góp cho hoạt động của cộng đồng ESL (Dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai).
ELS tại Hoa Kỳ được kiểm định bởi Hội Đồng Kiểm Định Giáo Dục Đào Tạo Thường Xuyên (ACCET) – một cơ quan kiểm định của quốc gia do Bộ trưởng Giáo dục Hoa Kỳ chỉ định. Ngoài ra, ELS cũng được đã được chứng nhận bởi Hội đồng tuyển sinh quốc tế Mỹ (AIRC).
- Bao gồm 12 cấp độ từ 101 (sơ cấp) đến 112 (cao cấp).
- Sĩ số học viên 15 - 20 học viên/lớp.
- 30 tiết học mỗi tuần, mỗi tiết 50 phút, tổng cộng 23 giờ học mỗi tuần.
- 5 ngày đến lớp mỗi tuần, từ thứ Hai – thứ Sáu.
- Mỗi cấp độ kéo dài 4 tuần, mỗi khóa học tương đương 1 cấp độ.
- 26 kỳ khai giảng hằng năm, mỗi tháng đều có 1-2 kỳ mở khóa mới.
- 8:30 – 9:20 : Cấu trúc câu/Luyện nói
- 9:30 – 10:20 : Cấu trúc câu/Luyện nói
- 10:30 – 11:20 : Từ vựng
- 11:30 – 12:20 : Thực hành tại phòng Lab
- 12:20 – 1:30 : Ăn trưa
- 1:30 – 2:30 : Đọc/Viết
- 2:40 – 3:45 : Đọc/Viết
Công ty tư vấn du học Thế Hệ Mới tự hào là đại diện tuyển sinh chính thức của tổ chức ELS tại Việt Nam. Hãy liên lạc với chúng tôi ngay nếu bạn chọn học tiếng Anh tại Mỹ hoặc Canada cùng tổ chức ELS.
Giấy chứng nhận Thế Hệ Mới là đại diện tuyển sinh chính thức của tổ chức ELS tại Việt Nam.
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.
Tài liệu gốc mang tên "10 Points to remember when applying for a non-immigrant visa" đã được phát hành rộng rãi từ nhiều năm trước, nó được soạn bởi các cựu nhân viên Lãnh Sự Hoa Kỳ và được nhiều trường tại Mỹ gửi cho du học sinh để hướng dẫn chuẩn bị phỏng vấn xin thị thực du học. Tiếc thay, phần lớn học sinh đều bỏ qua tài liệu hữu ích này vì nó quá nhiều chữ tiếng Anh :-( . Công ty tư vấn du học Thế Hệ Mới đăng lại tài liệu này bằng song ngữ Anh - Việt, mong là nó sẽ hữu ích cho các bạn học sinh đang chuẩn bị xin thị thực du học Mỹ.
Theo Luật pháp của Hoa Kỳ, tất cả những người xin thị thực không di dân, chẳng hạn như thị thực du học, được xem như người có ý định nhập cư cho đến khi họ có thể thuyết phục viên chức lãnh sự rằng họ không có ý định đó. Do đó, bạn phải có khả năng để cho thấy rằng bạn có lý do để trở về nước của bạn mạnh mẽ hơn những lý do bạn ở lại Hoa Kỳ. "Các mối ràng buộc với nước sở tại là những điều ràng buộc bạn với quê hương của bạn, hoặc nơi cư trú hiện tại: công việc, gia đình, triển vọng tài chính mà bạn sở hữu hoặc sẽ thừa kế, đầu tư, v.v.. nếu bạn muốn học đại học, các phỏng vấn viên có thể hỏi về những dự định cụ thể của bạn hay hứa hẹn việc làm trong tương lai, gia đình hoặc các mối quan hệ khác, mục tiêu giáo dục, trình độ, kế hoạch dài hạn và triển vọng nghề nghiệp ở nước bạn. Hoàn cảnh của mỗi người tất nhiên khác nhau, và không có lời giải thích kỳ diệu hay tài liệu duy nhất, giấy chứng nhận, hoặc bất kỳ bức thư nào có thể đảm bảo bạn được cấp visa.
Dự kiến trước là buổi phỏng vấn sẽ được tiến hành bằng tiếng Anh và không sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của bạn. Một gợi ý là hãy luyện tập tiếng Anh với người bản xứ trước khi phỏng vấn, nhưng KHÔNG phải là chuẩn bị đọc diễn văn!
Đừng đưa bố mẹ hay người nhà đến các cuộc phỏng vấn. Nhân viên lãnh sự muốn phỏng vấn bạn, không phải gia đình của bạn. Bạn sẽ tạo ấn tượng xấu nếu bạn không chuẩn bị để tự trình bày vấn đề của mình.
Bạn phải có khả năng trình bày rõ lý do cụ thể cho việc lựa chọn một chương trình học tại Hoa Kỳ và giải thích được việc học tập tại Hoa Kỳ liên quan đến nghề nghiệp tương lai của bạn khi bạn trở về nhà.
Vì số lượng của các hồ sơ xin thị thực rất lớn, tất cả các viên chức lãnh sự phải làm việc dưới áp lực thời gian đáng kể để tiến hành một cuộc phỏng vấn nhanh chóng và hiệu quả. Họ phải đưa ra quyết định, phần lớn, dựa trên những ấn tượng có được từ trong những phút đầu tiên của cuộc phỏng vấn. Do đó, những gì bạn nói lần đầu và ấn tượng ban đầu mà bạn tạo ra sẽ quyết định thành công của bạn. Hãy trả lời các câu hỏi một cách ngắn gọn vào trọng tâm.
Những hồ sơ quan trọng phải được trình cho viên chức lãnh sự ngay lập tức và rõ ràng. Những văn bản giấy tờ bạn trình và những gì họ biểu giải trình bằng văn bản quá dài có thể không được đọc nhanh chóng và đánh giá. Hãy nhớ rằng bạn chỉ có 2 - 3 phút cho cuộc phỏng vấn. Nếu bạn là người may mắn.
Đương đơn từ các quốc gia đang gặp các vấn đề kinh tế hay các quốc gia mà nhiều sinh viên đã ở lại Hoa Kỳ như là người nhập cư sẽ có nhiều khó khăn nhận được thị thực
Mục đích chính của bạn đến Hoa Kỳ là để học tập, không phải để có cơ hội kiếm việc làm trước hoặc sau khi tốt nghiệp. Có nhiều sinh viên làm thêm việc bên ngoài trường trong nghiên cứu của họ, việc này chỉ là ngẫu nhiên mục đích chính của họ hoàn thành việc học của họ tại Mỹ. Bạn phải có khả năng trình bày rõ kế hoạch của bạn để trở về nhà khi kết thúc khóa học của bạn. Nếu người phối ngẫu của bạn nộp đơn cho visa đi kèm F-2, hãy ý thức được rằng F-2 có thể không được phép làm việc tại Hoa Kỳ. Nếu được hỏi, hãy chuẩn bị sẵn sàng để giải quyết những gì vợ chồng bạn dự định làm trong khi tại Hoa Kỳ. Công việc tình nguyện và đi học bán thời gian được chấp thuận.
Nếu người phối ngẫu và con cái của bạn vẫn ở lại đất nước của bạn, bạn phải đảm bảo họ tự hỗ trợ được trong khi bạn vắng mặt. Điều này có thể là một lãnh vực đặc biệt khó khăn nếu bạn là nguồn thu nhập chính của gia đình bạn. Nếu các viên chức lãnh sự cảm thấy rằng gia đình bạn sẽ cần bạn phải gửi tiền từ Hoa Kỳ về để nuôi họ, việc xin thị thực sinh viên của bạn sẽ gần như chắc chắn sẽ bị từ chối.
Không tranh cãi với các viên chức lãnh sự. Nếu bạn bị từ chối visa du học, yêu cầu nhân viên cho một danh sách các tài liệu gợi ý bạn cần phải bổ sung để vượt qua sự từ chối, và cố gắng để có được những lý do bạn bị từ chối bằng văn bản.
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.
Theo báo cáo từ chương trình SEVP, hằng năm có hơn mười nghìn du học sinh đến Mỹ để học tiếng Anh. Nhiều sinh viên đến để chuẩn bị nhập học vào đại học và cao đẳng ở Mỹ; các sinh viên khác đến để học tiếng Anh và trải nghiệm cuộc sống Mỹ; một số sinh viên đến để nâng cao tiếng Anh giúp tìm một công việc tốt hơn tại quê nhà.
Có thể chương trình Anh ngữ không phải là lựa chọn đầu tiên khi sinh viên nghĩ đến và nhiều sinh viên nghĩ rằng kỹ năng tiếng Anh của mình là tốt, nhưng sinh viên nên cân nhắc chọn học chương trình Anh ngữ, đặc biệt là chương trình tiếng Anh chuyên sâu toàn thời gian (được viết tắt là ESL, EAP hoặc IESL). Nâng cao kỹ năng tiếng Anh sẽ giúp sinh viên có cơ hội đạt điểm TOEFL hoặc IELTS cao hơn, điều đó có nghĩa là sinh viên sẽ có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn trường và xin học bổng.
Sinh viên cũng sẽ thấy lớp học trở nên dễ dàng hơn và học tập tốt hơn nhờ có các kỹ năng tiếng Anh tốt. Môi trường lớp học và hệ thống giáo dục đại học ở Mỹ rất khác biệt. Sinh viên được khuyến khích tham gia thảo luận trong lớp, chia sẻ quan điểm, tranh luận và giải thích lý do, trình bày trước lớp và làm việc theo nhóm với các sinh viên khác trong lớp. Học và nâng cao kỹ năng tiếng Anh sẽ giúp sinh viên có nền tảng tốt trước khi vào học đại học hoặc thạc sỹ.
Nước Mỹ rộng lớn và đa dạng với các trường cao đẳng và đại học, trường tư và trường công, quy mô lớn và nhỏ, thành thị và ngoại ô, cũng như nhiều trường Anh ngữ tư thục. Bên dưới là các chương trình học Anh ngữ tại Mỹ, mong là bạn sẽ chọn đúng chương trình phù hợp với khả năng và ngân sách của mình:
Nhiều trường cao đẳng và đại học ở Mỹ có chương trình Anh ngữ chuyên sâu toàn thời gian. Chương trình Anh ngữ toàn thời gian (được viết tắt là ESL, EAP hoặc IESL) phải đáp ứng tối thiểu 18 giờ học mỗi tuần cho sinh viên để được cấp thị thực sinh viên loại F-1, nhiều trường thiết kế 20-25 giờ học/tuần và sinh viên đến trường học 5 ngày/tuần.
Tương tự như chương trình bậc đại học chính khóa, sinh viên thường bắt đầu khóa học Anh ngữ vào đầu học kỳ. Sinh viên chương trình học tiếng Anh có thể ở nội trú trong trường và có thể sử dụng thư viện, các khu vực giải trí và phòng tập thể thao, cũng như nhiều tiện ích khác. Sinh viên có thể thực hành tiếng Anh với các sinh viên đại học trong khu nội trú và khu ẩm thực trong trường. Ở một vài trường, sinh viên ở trình độ tiếng Anh nâng cao có thể học một vài khóa học cơ bản theo chương trình đại học trước khi hoàn thành chương trình Anh ngữ toàn thời gian, họ thường gọi chương trình đó là Nhịp cầu đại học (College Bridge).
Một lợi ích khác khi tham gia khóa học Anh ngữ chuyên sâu kết hợp với chương trình đại học này là sinh viên với thị thực F-1 có thể làm việc tại trường lên đến 20 giờ một tuần. Một điều quan trọng cần lưu ý là chương trình Anh ngữ chuyên sâu không phải là một phần của chương trình đại học hoặc cao đẳng, vì vậy sinh viên có thể không nhận được tín chỉ cho các lớp đã học. Sinh viên tham gia học chương trình Anh ngữ chuyên sâu không nhất thiết phải học cao đẳng và đại học sau khi hoàn thành chương trình. Lưu ý chi phí học tại trường đại học, cao đẳng và cao đẳng cộng đồng công lập thường ít hơn so với trường đại học và cao đẳng tư thục.
Một vài trường tư đào tạo Tiếng Anh cũng có chương trình chuyển tiếp lên đại học hoặc cao đẳng tại Mỹ, và nhiều trường có địa điểm trong hoặc gần khuôn viên trường. Một số trường có lớp học tại tòa cao ốc văn phòng ngay trung tâm thành phố hoặc trung tâm mua bán, chỉ một vài trường dạy tiếng Anh tư có khu nội trú hoặc giúp bố trí nhà ở cho sinh viên dạng ở cùng gia đình người Mỹ.
Tại một vài trường tư đào tạo tiếng Anh chuyên sâu, sinh viên ở trình độ nâng cao có thể học một hoặc hai khóa học dành cho chương trình đại học tại các trường cao đẳng hoặc đại học liền kề. Nhiều trường còn có chương trình tiếng Anh kết hợp kỳ nghỉ qua đó sinh viên có thể học tiếng Anh khi đi du lịch hoặc tham gia vào các hoạt động khác. Ở các trường tư, lịch học có thể linh hoạt hơn so với các trường cao đẳng và đại học, các khóa học mới được mở mỗi tháng một vài lần, điều này thuận lợi cho sinh viên với kế hoạch học tập trong thời gian ngắn.
Một chương trình dạy Anh ngữ chuyên sâu chất lượng phải được kiểm định bởi các tổ chức hoặc phải là thành viên của các hiệp hội đào tạo tiếng Anh chuyên nghiệp. Trường đào tạo tiếng Anh do trường đại học hoặc cao đẳng “quản lý” hoặc “thành lập” được tổ chức kiểm định cấp khu vực cùng với các chương trình của trường. Một số tổ chức kiểm định và hiệp hội Anh ngữ chuyên nghiệp như sau:
- Ủy Ban Kiểm Định Chương Trình Ngôn Ngữ Tiếng Anh (CEA - www.cea-accredit.org) kiểm định các chương trình đáp ứng các tiêu chí về Học thuật.
- Hội Đồng Kiểm Định Giáo Dục và Đào Tạo Thường Xuyên (ACCET - www.accet.org) kiểm định các tổ chức có chương trình đào tạo và giáo dục thường xuyên.
- Hiệp hội Các Chương Trình Tiếng Anh Chuyên Sâu Thuộc Trường Cao Đẳng và Đại Học (UCIEP - www.uciep.org) đánh giá nghiêm ngặt các tổ chức thành viên.
- Hiệp hội Chương Trình Tiếng Anh Chuyên Sâu Mỹ (AAIEP - www.aaiep.org) có tiêu chuẩn cho chương trình tiếng Anh và đánh giá nghiêm ngặt các tổ chức thành viên.
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.
Với thị thực loại F-1, du học sinh được phép ở lại Mỹ trong suốt khoảng thời gian còn duy trì tình trạng hợp pháp tại Mỹ. Điều này có nghĩa là du học sinh có thể tiếp tục học tại Mỹ dài hạn ngay cả khi thị thực du học (F-1) đính kèm trong hộ chiếu đã hết hạn. Sau ngày thị thực hết hạn, nếu học sinh rời khỏi Hoa Kỳ thì cần phải có 1 thị thực mới để được phép nhập cảnh trở lại Mỹ.
Bản chất của chương trình gia hạn visa là đương đơn được gửi hồ sơ xin visa qua đường bưu điện để viên chức lãnh sự xét duyệt cấp visa, được TẠM MIỄN tham dự buổi phỏng vấn trực tiếp tại cơ quan Lãnh sự Hoa Kỳ như lần xin visa đầu tiên.
Tuy nhiên tại thời xét duyệt hồ sơ của đương đơn, viên chức lãnh sự có thể mời đương đơn tham dự buổi phỏng vấn trực tiếp để cung cấp thêm các thông tin cần thiết trước khi đưa ra quyết định chính thức về chấp thuận hay từ chối cấp visa. Do đó, các đương đơn hội đủ điều kiện tham gia chương trình gia hạn visa không có nghĩa là chắc chắn sẽ được tiếp tục cấp visa dễ dàng như lần trước đó.
- Bạn không cần dùng hộ chiếu của bạn trong vòng 2 tuần.
- Bạn là công dân Việt Nam, hoặc là người được xác nhận về tình trạng cư trú tại Việt Nam.
- Bạn hiện diện ở Việt Nam tại thời điểm gửi hồ sơ gia hạn thị thực đến cơ quan Lãnh sự Hoa Kỳ.
- Bạn có thị thực du học Hoa Kỳ vẫn còn hiệu lực hoặc hết hạn chưa quá 48 tháng và bạn đang xin thị thực cùng loại. Thời gian 48 tháng được tính từ ngày hết hạn của thị thực tới ngày cơ quan Lãnh sự Hoa Kỳ nhận được hồ sơ xin gia hạn thị thực của bạn.
- Bạn không bị từ chối cấp thị thực trong lần xin thị thực đến Hoa Kỳ gần nhất.
- Thị thực trước của bạn không bị mất, bị đánh cắp hoặc bị thu hồi và bạn có thể nộp hộ chiếu có thị thực trước của bạn.
- Thị thực trước của bạn được cấp khi bạn 14 tuổi hoặc trên 14 tuổi và bạn đã cung cấp 10 dấu vân tay. Lưu ý: Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ bắt đầu lấy 10 dấu vân tay từ ngày 7 tháng 11 năm 2007. Nếu thị thực gần nhất của bạn được cấp trước ngày này hoặc được cấp khi bạn dưới 14 tuổi, bạn sẽ không hội đủ tiêu chuẩn gia hạn thị thực qua đường bưu điện vì bạn chưa được lấy 10 dấu vân tay.
- Họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh và quốc tịch trên hộ chiếu của bạn trùng khớp với thông tin của hồ sơ xin cấp thị thực trước đây.
- Bạn không trả lời “CÓ” cho bất cứ câu hỏi nào trong phần An ninh và Lý lịch của mẫu đơn xin thị thực DS‐160.
- Hộ chiếu phải còn ít nhất 2 trang trống và còn hạn sử dụng 12 tháng.
- Nếu visa gần nhất được dán trong cuốn hộ chiếu cũ, hãy nộp cả cuốn hộ chiếu đó.
- Trang xác nhận DS-160 có mã vạch, đã điền đầy đủ và được nộp trực tuyến.
- Một ảnh thẻ mới chụp trong vòng sáu tháng, kích thước 5x5 cm, phông nền trắng, lộ rõ hai vành tai, không đeo kính.
- Biên nhận đóng lệ phí xét thị thực.
- Đơn xác nhận đóng lệ phí an ninh SEVIS (I-901).
- Bản gốc đơn I-20 còn thời hạn hiệu lực và có chữ ký của viên chức nhà trường.
- Bảng điểm chính thức của toàn bộ thời gian đã học ở Hoa Kỳ.
Hằng năm có không ít trường hợp các em du học sinh Mỹ về thăm nhà nhưng không xin được visa để trở lại Mỹ, nguyên nhân là các em đã không nắm rõ các thông tin và thực hiện các thủ tục cần thiết trước khi rời khỏi Hoa Kỳ. Các hướng dẫn bên dưới sẽ giúp các em chuẩn bị thật chu đáo, tránh rủi ro không được tiếp tục cấp visa du học Mỹ.
- Trước khi rời khỏi Hoa Kỳ bạn phải báo cáo với văn phòng sinh viên quốc tế tại trường bạn đang học, viên chức DSO của trường sẽ xem xét nếu bạn hội đủ điều kiện để nhận 1 kỳ nghỉ và giúp bạn kiểm tra tình trạng hợp pháp trong hệ thống SEVIS.
- Kiểm tra hộ chiếu của mình xem phải còn hiệu lực sử dụng ít nhất 12 tháng và 2 trang trống.
- Mẫu đơn I-20 bản chính còn thời hạn sử dụng và có chữ ký xác nhận của viên chức nhà trường, mỗi chữ ký có giá trị 12 tháng.
- Bảng điểm chính thức (official transcript) của toàn bộ quá trình học ở Mỹ.
Thành tích học tập là yếu tố quan trọng nhất để được gia hạn visa, học sinh không cần có điểm học xuất sắc nhưng cần thể hiện đã học tập nghiêm túc trong suốt thời gian ở Mỹ. Phần lớn rủi ro du học sinh không được cấp visa để quay lại Mỹ là từ các yếu tố liên quan đến thành tích học tập.
- Học chương trình Anh Văn toàn thời gian (ESL) nhiều hơn 2 năm.
- Điểm trung bình thấp dưới 2.8 trong các học kỳ gần nhất.
- Sinh viên cao đẳng/đại học không hoàn thành đủ 12 tín chỉ mỗi học kỳ. Trường hợp ngoại lệ chỉ áp dụng cho kỳ học cuối cùng để tốt nghiệp 1 văn bằng hoặc có thư chấp thuận Reduce Course Load của trường.
- Sinh viên cao học không hoàn thành đủ 6 tín chỉ mỗi học kỳ. Trường hợp ngoại lệ chỉ áp dụng cho kỳ học cuối cùng để tốt nghiệp 1 văn bằng hoặc có thư chấp thuận Reduce Course Load của trường.
- Bảng điểm có các môn phải nhận kết quả F, W hay INC trong những học kỳ gần nhất.
- Không bị out of status - mất tình trạng du học sinh hợp pháp.
- Không ở trong giai đoạn chờ cấp thẻ xanh (green card) vì sẽ trái với điều luật xét cấp visa 214(b).
- Không vi phạm luật pháp Mỹ hoặc đang chờ ra tòa vì bất cứ vấn đề gì.
- Không nợ học phí ở bất cứ trường nào đã học.
- Không từng chuyển trường ngay lập tức sau khi nhập cảnh Mỹ lần đầu tiên (Initial transfer), hoặc chuyển trường nhiều lần trong 1 năm học.
Nếu sinh viên gặp bất cứ vấn đề nào liệt kê ở mục 2. và 3. bên trên, hãy tiếp tục ở lại Mỹ để hoàn tất chương trình học, tránh rủi ro không được cấp visa để quay lại Mỹ.
Công ty Thế Hệ Mới chuyên làm visa du học, du lịch, định cư từ năm 2004.