Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều nhóm đa chủng tộc, truyền thống, và giá trị. Nói đến văn hóa chung của đa số người Mỹ là có ý nói đến "văn hóa đại chúng Mỹ." Đó là một nền văn hóa Tây phương phần lớn là sự đúc kết từ những truyền thống của các di dân từ Tây Âu, bắt đầu là các dân định cư người Hà Lan và người Anh trước tiên. Văn hóa Đức, Ireland, và Scotland cũng có nhiều ảnh hưởng. Một số truyền thống của người bản thổ Mỹ và nhiều đặc điểm văn hóa của người nô lệ Tây Phi châu được hấp thụ vào đại chúng người Mỹ.
Sự mở rộng biên cương về phía tây đã đưa người Mỹ tiếp xúc gần đến nền văn hóa Mexico, và sự di dân mức độ lớn trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 từ Nam Âu và Đông Âu đã mang đến thêm nhiều yếu tố văn hóa mới. Sự di dân gần đây hơn từ châu Á và đặc biệt là từ châu Mỹ Latinh có nhiều ảnh hưởng rộng lớn. Kết quả sự trộn lẫn các nền văn hóa lại với nhau có thể có đặc tính như là một cái nồi súp nấu chảy mọi thứ văn hóa thành một thứ văn hóa chung mà người Mỹ thường gọi từ xưa đến nay là melting pot, hay là một khái niệm mới salad bowl là một tô xà-lách trộn có đủ thứ rau, gia vị mà trong đó những người di dân và con cháu của họ vẫn giữ các đặc tính văn hóa riêng biệt của mình.
Trong khi văn hóa Mỹ xác định rằng Hoa Kỳ là một xã hội không giai cấp, các nhà kinh tế và xã hội đã nhận dạng ra sự khác biệt văn hóa giữa các giai cấp xã hội của Hoa Kỳ, làm ảnh hưởng đến xã hội hóa, ngôn ngữ, và các giá trị. Giai cấp nghiệp vụ và trung lưu Mỹ đã và đang là nguồn của nhiều chiều hướng thay đổi xã hội cận đại như chủ nghĩa bình đẳng nam nữ, chủ nghĩa bảo vệ môi trường, và chủ nghĩa đa văn hóa. Sự tự nhận thức về bản thân, quan điểm xã hội, và những trông mong về văn hóa của người Mỹ có liên hệ với nghề nghiệp của họ tới một cấp độ cận kề khác thường.
Trong khi người Mỹ có chiều hướng quá coi trọng sự thành đạt về kinh tế xã hội nhưng nếu là một người bình thường hoặc trung bình thông thường cũng được xem là một thuộc tính tích cực. Phụ nữ, trước đây chỉ hạn chế với vai trò nội trợ, bây giờ hầu hết làm việc bên ngoài và là nhóm đa số lấy được bằng cử nhân. Vai trò thay đổi của phụ nữ cũng đã làm thay đổi gia đình Mỹ. Năm 2005, số hộ gia đình chỉ có một người chiếm 30 phần trăm tổng số hộ gia đình; nhiều cặp vợ chồng không có con là chuyện bình thường với tỉ lệ 28 phần trăm.
Việc nới rộng quyền kết hôn cho những người đồng tính là một vấn đề gây tranh luận, các bang cấp tiến cho phép sống chung giữa những người đồng tính (civil union) và những bang phía bắc như Massachusetts, Vermont, Iowa, Connecticut, Maine và New Hampshire vừa qua đã hợp thức hóa hôn nhân đồng tính. Bang California cũng đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào tháng 4 năm 2008, nhưng sau đó những người đồng tính lại bị tước quyền kết hôn sau khi Dự Luật 8 được ban hành vào tháng 11 năm 2008. Ngày 26/06/2015 là 1 ngày quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ khi Toà án tối cao Mỹ chính thức công nhận mọi công dân Mỹ đều có thể kết hôn, không phân biệt giới tính hay xu hướng tình dục, với tỷ lệ 5/4 số phiếu biểu quyết. Cũng bắt đầu từ ngày 26/6, các cặp đồng tính nam và nữ trên toàn nước Mỹ đã có thể bình đẳng đăng ký kết hôn, được bảo vệ bởi luật hôn nhân và những điều luật liên quan như về con cái, phân chia tài sản sau ly hôn... Họ được hưởng mọi quyền lợi cũng như thực thi mọi nghĩa vụ như một cặp vợ chồng dị tính.
Truyền thông đại chúng
Năm 1878, Eadweard Muybridge đã chứng minh khả năng của thuật nhiếp ảnh có thể chụp được ảnh di động. Năm 1894, triển lãm hình ảnh di động thương mại đầu tiên của thế giới được trình diễn tại thành phố New York, sử dụng máy ảnh của Thomas Edison chế tạo. Năm sau đó người ta thấy phim thương mại đầu tiên được chiếu trên màn bạc, cũng tại New York, và Hoa Kỳ luôn đi đầu trong việc phát triển phim có tiếng nói trong những thập niên sau đó. Từ đầu thế kỷ 20, công nghệ phim ảnh của Hoa Kỳ phần lớn có trung tâm trong và xung quanh khu Hollywood thuộc thành phố Los Angeles, California. Đạo diễn D. W. Griffith là trung tâm của việc phát triển các qui cách làm phim dựng phim và bộ phim Citizen Kane (1941) của Đạo diễn Orson Welles luôn được bình chọn như là một bộ phim vĩ đại nhất của mọi thời đại. Các diễn viên điện ảnh như John Wayne và Marilyn Monroe đã trở thành những khuôn mặt biểu tượng trong khi đó nhà sản xuất phim kiêm kinh doanh Walt Disney là một người đi đầu trong cả lĩnh vực phim hoạt họa và dùng phim ảnh để quảng cáo các sản phẩm. Các phim trường chính của Hollywood là nơi chính yếu sản xuất ra các bộ phim thương mại thành công nhất trên thế giới như Star Wars (1977) và Titanic (1997), và các sản phẩm của Hollywood ngày nay chiếm lĩnh công nghệ điện ảnh thế giới.
Người Mỹ là những người nghiện xem truyền hình nhất trên thế giới, và thời gian trung bình dành cho xem truyền hình tiếp tục tăng cao, lên đến 5 giờ mỗi ngày vào năm 2006. Tất cả bốn hệ thống truyền hình lớn là thuộc truyền hình thương mại. Người Mỹ lắng nghe chương trình radio, phần lớn cũng là thương mại hoá, trung bình là trên 2 tiếng rưỡi một ngày. Ngoài các cổng trang mạng (web portal) và trang tìm kiếm trên mạng (search engine), các trang mạng phổ thông nhất là eBay, MySpace, Amazon.com, The New York Times và Apple.
Loại nhạc có nhịp điệu và trữ tình của người Mỹ gốc châu Phi nói chung đã ảnh hưởng sâu đậm âm nhạc Mỹ, làm cho nó khác biệt với âm nhạc truyền thống châu Âu. Những làn điệu từ nhạc cổ truyền như nhạc blues và loại nhạc mà bây giờ được biết như là old-time music đã được thu thập và đưa vào trong âm nhạc bình dân mà được thưởng thức khắp nơi trên thế giới. Nhạc Jazz được phát triển bởi những nhà sáng tạo âm nhạc như Louis Armstrong và Duke Ellington đầu thế kỷ 20. Nhạc đồng quê, rhythm and blues, và rock and roll xuất hiện giữa thập niên 1920 và thập niên 1950. Những sáng tạo mới gần đây của người Mỹ gồm có funk và hip hop. Những ngôi sao nhạc pop của Mỹ như Michael Jackson được mệnh danh là "Ông hoàng nhạc pop", Madonna được mệnh danh là "Nữ hoàng nhạc pop", và còn nhiều ca sĩ khác nữa đã trở thành những huyền thoại âm nhạc.
Văn chương, triết học, và nghệ thuật
Trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, văn chương và nghệ thuật Mỹ bị ảnh hưởng đậm nét của châu Âu. Những nhà văn như Nathaniel Hawthorne, Edgar Allan Poe, và Henry David Thoreau đã lập nên một nền văn chương Mỹ rõ rệt vào khoảng giữa thế kỷ 19. Mark Twain và nhà thơ Walt Whitman là những khuôn mặt lớn trong nửa cuối thế kỷ; Emily Dickinson, gần như không được biết đến trong suốt đời bà, đã được công nhận là nhà thơ quan trọng khác của Mỹ. Mười một công dân Hoa Kỳ đã đoạt được Giải Nobel Văn chương, gần đây nhất là Toni Morrison năm 1993. Ernest Hemingway, người đoạt giải Nobel năm 1954, thường được coi là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Một tác phẩm được xem như cô đọng mọi khía cạnh cơ bản kinh nghiệm và đặc tính của quốc gia—như Moby-Dick (1851) của Herman Melville, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (1885) của đại văn hào Mark Twain, và Đại gia Gatsby (1925) của F. Scott Fitzgerald—có thể được tặng cho danh hiệu là "đại tiểu thuyết Mỹ." Các thể loại văn chương bình dân như văn chương miền Tây và tiểu thuyết tội phạm đã phát triển tại Hoa Kỳ.
Người theo thuyết tiên nghiệm do Ralph Waldo Emerson và Thoreau lãnh đạo đã thiết lập phong trào triết lý Mỹ chính yếu đầu tiên. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles Sanders Pierce và rồi William James và John Dewey là những người lãnh đạo trong việc phát triển chủ nghĩa thực dụng. Trong thế kỷ 20, công trình của Willard Van Orman Quine và Richard Rorty đã giúp đưa triết học phân tích đến tiền sảnh của các học viện Hoa Kỳ.
Về nghệ thuật thị giác, Trường phái Sông Hudson là một phong trào quan trọng giữa thế kỷ 19 theo truyền thống chủ nghĩa tự nhiên châu Âu. Chương trình Armory năm 1913 tại thành phố New York là một triển lãm nghệ thuật đương đại châu Âu đã gây cơn sốt đến công chúng và chuyển hóa cảnh tượng nghệ thuật Hoa Kỳ. Georgia O'Keefe, Marsden Hartley, và những người khác đã thực nghiệm với những thể loại mới, mô tả một cảm xúc cá nhân cao độ. Những phong trào mỹ thuật chính như chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng của Jackson Pollack và Willem de Kooning và nghệ thuật văn hóa dân gian của Andy Warhol và Roy Lichtenstein đã phát triển rộng khắp Hoa Kỳ. Làn sóng chủ nghĩa hiện đại và sau đó là chủ nghĩa hậu hiện đại cũng đã đưa các kiến trúc sư Mỹ như Frank Lloyd Wright, Philip Johnson, và Frank Gehry lên đỉnh cao trong lĩnh vực của họ.
Một trong những người lừng danh đầu tiên đề xướng thể loại kịch mới phôi phai của Mỹ là ông bầu P. T. Barnum. Ông khởi đầu điều hành một nhà hát ở hạ Manhattan năm 1841. Kịch đoàn Harrigan and Hart đã dàn dựng một loạt những vở nhạc hài kịch thu hút đông công chúng tại New York bắt đầu vào cuối thập niên 1870. Trong thế kỷ 20, hình thức nhạc hiện đại đã xuất hiện trên Sân khấu Broadway nơi mà các bản nhạc của các nhà soạn nhạc như Irving Berlin, Cole Porter, và Stephen Sondheim đã trở thành những tiêu chuẩn cho thể loại nhạc văn hóa dân gian. Nhà soạn kịch Eugene O'Neill đã đoạt được giải Nobel văn chương năm 1936; những nhà soạn kịch nổi danh khác của Hoa Kỳ còn có nhiều người đoạt Giải Pulitzer như Tennessee Williams, Edward Albee, và August Wilson.
Mặc dù bị coi nhẹ vào lúc đương thời, công trình của Charles Ives trong thập niên 1910 đã đưa ông lên thành một nhà soạn nhạc lớn đầu tiên của Hoa Kỳ về thể loại nhạc truyền thống cổ điển; những người tiếp bước theo sau như Henry Cowell và John Cage đã tạo được một bước tiến gần hơn trong việc sáng tác nhạc cổ điển có định dạng riêng của Mỹ. Aaron Copland và George Gershwin đã phát triển một thể loại nhạc cổ điển và bình dân tổng hợp riêng biệt của Mỹ. Các nhà biên đạo múa Isadora Duncan và Martha Graham là những khuôn mặt trung tâm trong việc sáng tạo ra khiêu vũ hiện đại; George Balanchine và Jerome Robbins là những người đi đầu về múa balê của thế kỷ 20. Hoa Kỳ từ lâu luôn đi đầu trong lĩnh vực nghệ thuật nhiếp ảnh hiện đại với những nhà nhiếp ảnh như Alfred Steiglitz, Edward Steichen, Ansel Adams, và nhiều người khác. Truyện tranh nhiều kỳ trên báo gọi là comic strip và sách truyện tranh là hai thứ sáng tạo của người Mỹ. Superman hay "siêu nhân" trong tiếng Việt, đại anh hùng trong sách truyện tranh tinh hoa, đã trở thành hình tượng Mỹ.
Thực phẩm và trang phục
Nghệ thuật nấu ăn đại chúng của Mỹ thì tương tự như của các quốc gia Tây phương. Lúa mì là loại ngũ cốc chính yếu. Ẩm thực truyền thống Mỹ sử dụng các loại vật liệu nấu ăn như gà tây, thịt nai đuôi trắng, khoai tây, khoai lang, bắp, bí rợ loại trái dài (squash), và xi-rô cây phong, là các loại thực phẩm được người bản thổ Mỹ và dân định cư xưa từ châu Âu đến chế biến. Thịt heo nấu theo phương pháp nấu chậm (Slow-cooked pork), thịt bò nướng, bánh thịt cua (crab cake), khoai tây thái mỏng từng miếng và chiên (potato chips), và bánh tròn nhỏ có những hạt sô cô la trộn lẫn gọi là chocolate chip cookie là những loại thực phẩm chính cống Mỹ.
Thực phẩm chua của người nô lệ phi Châu, phổ biến khắp miền Nam và tại những nơi có người Mỹ gốc châu Phi. Gà chiên kết hợp với nghệ thuật ẩm thực truyền thống của người Mỹ gốc châu Phi và người Scotland là một món khoái khẩu quốc gia. Các món ăn mang tính hình tượng của Mỹ như bánh nhân táo, pizza, hamburger, và hot dog là những món ăn đúc kết từ những phương thức chế thức ăn của đa dạng các di dân đến từ châu Âu. Loại thức ăn gọi là khoai tây chiên kiểu Pháp, các món Mexico như burritos và taco, pasta là có nguồn gốc từ Ý được mọi người khắp nơi thưởng thức. Trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, lượng calorie mà người Mỹ trung bình ăn vào cơ thể tăng 24 phần trăm, khi tỉ lệ số người Mỹ ăn thức ăn bên ngoài tăng từ 18 đến 32 phần trăm. Ăn uống thường xuyên tại những nhà hàng thức ăn nhanh như McDonald gần như có liên quan đến hiện tượng mà các nhà nghiên cứu của chính phủ gọi đó là "dịch bệnh béo phì."
Người Mỹ thích uống cà phê hơn trà với khoảng hơn phân nửa dân số người lớn uống ít nhất một tách cà phê một ngày. Các loại rượu Mỹ có Bourbon whiskey, Tennessee whiskey, Applejack, và rượu rum Puerto Rico. Rượu Martini là loại rượu trái cây đặc tính Mỹ. Một người Mỹ trung bình tiêu thụ 81,6 lít bia mỗi năm. Các loại bia nhẹ kiểu Mỹ mà điển hình là thương hiệu hàng đầu Budweiser nhẹ cả trong người và trong hương vị; Chủ nhân của Budweiser là Anheuser-Busch đang chiếm lĩnh 50 phần trăm thị trường bia quốc gia. Trong những thập niên vừa qua, việc sản xuất và tiêu thụ rượu đã gia tăng đáng kể. Việc làm rượu hiện tại là một ngành công nghiệp hàng đầu tại California. Ngược với các truyền thống châu Âu, người Mỹ uống rượu trước bữa ăn, thay thế rượu trái cây khai vị. Công nghiệp Hoa Kỳ phần lớn sản xuất ra đồ uống cho ăn sáng gồm có sữa và nước cam. Các loại nước uống rất ngọt được ưa chuộng khắp nơi; các loại nước uống có đường chiếm 9 phần trăm lượng calorie tiêu thụ hàng ngày của một người Mỹ trung bình, gấp đôi tỉ lệ của 3 thập niên về trước. Nhà sản xuất nước ngọt hàng đầu Coca-Cola là thương hiệu được công nhận nhất trên thế giới, đứng trước McDonald.
Không kể đến kiểu quần áo chỉnh tề nghiệp vụ, thời trang Hoa Kỳ có tính trung hòa và thường là không nghi thức. Trong khi nguồn gốc văn hóa đa dạng của người Mỹ phản ánh trong cách ăn mặc, đặc biệt là các di dân vừa mới đến gần đây, Mũ cao bồi, giày cao bồi và áo khoác ngoài kiểu đi xe mô tô là hình tượng kiểu Mỹ đặc biệt. Quần áo Jeans rất phổ biến như quần áo lao động trong thập niên 1850 của thương nhân Levi Strauss, một di dân Đức tại San Francisco, đã được giới trẻ Mỹ tiếp nhận một thế kỷ sau đó. Hiện nay quần áo Jeans được mặc khắp nơi trên mọi lục địa bởi mọi giới và mọi giai cấp xã hội. Song song với việc sử dụng làm quần áo thông dụng được bày bán đầy ở các chợ, quần áo jeans có thể nói rằng là đóng góp chính yếu của văn hóa Mỹ vào thời trang thế giới. Hoa Kỳ cũng là nơi đóng tổng hành dinh của nhiều nhãn hiệu thiết kế hàng đầu như Ralph Lauren và Calvin Klein.
Thể thao
Từ cuối thế kỷ 19, bóng chày được xem là môn thể thao quốc gia; bóng bầu dục Mỹ, bóng rổ, và khúc côn cầu là ba môn thể thao đồng đội chuyên nghiệp khác của quốc gia. Bóng bầu dục Đại học và Bóng rổ Đại học cũng hấp dẫn nhiều khán giả. Hiện nay bóng bầu dục, tính theo một số khía cạnh, là môn thể thao có nhiều người xem nhất tại Hoa Kỳ. Quyền Anh và đua ngựa trước đây là các môn thể thao cá nhân được nhiều người xem nhất nhưng nay đã phải chịu thua cho môn golf và đua xe hơi, đặc biệt là Hội đua xe NASCAR. Mặc dù bóng đá không phải là một môn thể thao chuyên nghiệp hàng đầu tại Hoa Kỳ, nó được giới trẻ và giới tài tử mọi lứa tuổi chơi khắp nơi. Tennis và các môn thể thao ngoài trời cũng được ưa chuộng.
Đa số các môn thể thao chính của Hoa Kỳ tiến hóa từ các môn tương tự của châu Âu. Tuy nhiên bóng rổ đã được Tiến sĩ James Naismith sáng tạo tại Springfield, Massachusetts năm 1891 và môn thể thao quen thuộc lacrosse là một môn thể thao của người bản thổ Mỹ, đã có từ trước thời thuộc địa. Về mặt thể thao cá nhân, môn lướt ván và môn lướt tuyết là những môn sáng tạo của Mỹ trong thế kỷ 20. Chúng có liên hệ với môn lướt sóng là một môn thể thao của người Hawaii có trước khi tiếp xúc với Tây phương. Tám lần Thế vận hội đã xảy ra ở Hoa Kỳ, bốn thế vận hội mùa hè và bốn thế vận hội mùa đông. Hoa Kỳ đã đoạt được 2.191 huy chương tổng cộng trong các kỳ Thế vận hội mùa hè, hơn bất cứ quốc gia nào, và 216 trong các kỳ Thế vận hội mùa đông, đứng hạng hai nhiều nhất. Một số vận động viên Mỹ đã trở thành lừng danh thế giới, đặc biệt là cầu thủ bóng chày Babe Ruth, võ sĩ Muhammad Ali, cầu thủ bóng rổ Michael Jordan, vận động viên bơi lội Michael Phelps và tay golf Tiger Woods.
Nguồn thông tin: wikipedia.org