Địa điểm du lịch Mỹ

Núi Rushmore - Khu Tưởng niệm Quốc gia là một tác phẩm điêu khắc được tạc vào khối đá granite trên núi Rushmore, gần thành phố Keystone, tiểu bang South Dakota, Hoa Kỳ. Là tác phẩm của Gutzon Borglum và sau này là con trai ông, Lincoln Borglum, Núi Rushmore thể hiện bốn gương mặt Tổng thống Hoa Kỳ với chiều cao 60 foot (18 m), từ trái sang phải lần lượt là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln. Toàn thể khu tưởng niệm bao phủ trên diện tích 1.278,45 mẫu Anh (5,17 km2) và cao 5.725 foot (1.745 m) so với mực nước biển.

Người ta cho rằng nhà sử học bang South Dakota, Doane Robinson, là người đưa ra ý tưởng tạc chân dung của những người nổi tiếng tại vùng Black Hills thuộc bang South Dakota để thúc đẩy ngành du lịch trong vùng phát triển. Ban đầu Robinson muốn tạc tượng ở vùng Needles; tuy nhiên, Gutzon Borglum không đồng ý mà lại chọn vùng núi lớn hơn, núi Rushmore. Borglum cũng quyết định nên tạc tượng liên quan đến quốc gia, đồng thời chọn chân dung bốn vị tổng thống để tạc vào núi.

Sau khi đảm bảo khoản ngân sách liên bang, việc xây dựng khu tưởng niệm bắt đầu vào năm 1927 và hoàn thành chân dung bốn vị tổng thống vào khoảng thời gian từ năm 1934 đến năm 1939. Khi Gutzon Borglum qua đời vào tháng 3 năm 1941, con trai của ông là Lincoln Borglum đã đảm nhiệm công việc của cha. Mặc dù ý tưởng ban đầu là tạc tượng bốn vị tổng thống từ đầu đến thắt lưng, nhưng do thiếu kinh phí nên công việc chạm khắc chấm dứt vào năm 1941. Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia bắt đầu quản lý khu tưởng niệm vào năm 1933 khi công trình còn đang dang dở và vẫn quản lý cho đến tận hôm nay. Hàng năm tại đây thu hút khoảng 2 triệu khách đến thăm.

Ban đầu ngọn núi tên là Lakota Sioux, nghĩa là Sáu vị cha già, sau này được đổi tên theo Charles E. Rushmore, một vị luật sư lỗi lạc ở New York qua chuyến thám hiểm năm 1885. Ban đầu, dự án tạc tượng ở núi Rushmore nhằm kích thích ngành du lịch tại vùng Black Hills thuộc bang South Dakota. Sau những cuộc đàm phán kéo dài giữa đoàn đại biểu Quốc hội và Tổng thống Calvin Coolidge, Quốc hội đã thông qua dự án trên. Công việc chạm khắc bắt đầu vào năm 1927 và kết thúc vào năm 1941 với vài ca chấn thương nhưng không ai tử nạn. Năm 1991, Tổng thống George H. W. Bush chính thức khánh thành công trình Núi Rushmore.

Mang tên Sáu vị cha già, ngọn núi là một phần trong chuyến đi tôn giáo đến đỉnh Harney Peak, dẫn đầu là vị tù trưởng của bộ lạc Lakota, Black Elk. Sau một loạt chiến dịch quân sự từ năm 1876 đến năm 1877, Hoa Kỳ đã chiếm lĩnh vùng đất này mặc dù vẫn còn những tranh cãi dựa trên Hiệp ước Fort Laramie năm 1868 (xem mục "Tranh cãi" dưới đây). Với cư dân da trắng Hoa Kỳ, ngọn núi này có nhiều tên gọi như Núi Cougar, Núi Sugarloaf, Núi Slaughterhouse và Vách đá Keystone. Ngọn núi mang tên Núi Rushmore qua một chuyến thám hiểm thăm dò của Charles Rushmore, David Swanzey (chồng của Carrie Ingalls) và Bill Challis.

Năm 1923, nhà sử học Doane Robinson đưa ra ý tưởng tạc tượng trên Núi Rushmore nhằm khuyến khích phát triển du lịch ở tiểu bang South Dakota. Năm 1924, Robinson thuyết phục nhà điêu khắc Gutzon Borglum đến thăm vùng Black Hills nhằm đảm bảo hoàn thành công việc điêu khắc. Borglum đã từng tham gia điêu khắc tác phẩm Đài Tưởng niệm Hiệp hội (Confederate Memorial Carving), một đài tưởng niệm chạm nổi nông (bas-relief) khổng lồ dành cho các vị lãnh đạo Hiệp hội ở vùng núi Stone Mountain thuộc bang Georgia, nhưng các quan chức của tiểu bang lại không đồng ý. Kế hoạch ban đầu là sẽ tiến hành tạc tượng trên những cột đá granite tên là Needles. Tuy nhiên, Borglum nhận thấy rằng những cột đá Needles đang bị xói mòn và không thể tạc tượng trên đó. Ông đã chọn Núi Rushmore với diện tích lớn hơn và vì vách núi quay về hướng Đông Nam nên nhận được nhiều ánh sáng mặt trời nhất. Borglum, sau khi nhìn thấy Núi Rushmore, đã phát biểu như sau: "Nước Mỹ sẽ diễu hành theo đường chân trời ấy".

Quốc hội cho phép bắt đầu Chiến dịch Khu tưởng niệm Quốc gia - Núi Rushmore vào ngày 3 tháng 3 năm 1925. Tổng thống yêu cầu ngoài bức tượng của Washington thì cũng cần phác thảo chân dung hai vị tổng thống Đảng Cộng hòa và một vị Tổng thống Đảng Dân chủ. Từ ngày 4 tháng 10 năm 1927 đến ngày 31 tháng 10 năm 1941, Gutzon Borglum cùng 400 công nhân đã tạc những bức tượng khổng lồ, cao 60 foot (18m), thể hiện 4 vị Tổng thống Hoa Kỳ là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln, biểu trưng cho lịch sử 130 năm đầu tiên của Hoa Kỳ. Borglum lựa chọn 4 vị tổng thống này dựa vào vai trò bảo vệ nền Cộng Hòa và mở mang bờ cõi của họ. Ban đầu người ta dự định tạc tượng Thomas Jefferson về phía bên phải của tượng Washington, nhưng sau khi tiến hành chạm khắc, người ta thấy khối đá ấy không phù hợp nên đã phá nổ khối đá mang hình Jefferson này và tạc một bức tượng mới bên trái tượng Washington.

Năm 1933, Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia đã tiến hành quản lý Núi Rushmore. Kỹ sư Julian Spotts giúp đỡ dự án bằng cách cải thiện phần cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn như ông đã nâng cấp tàu điện để tàu lên được đỉnh Núi Rushmore nhằm giúp công nhân làm việc dễ dàng hơn. Đến ngày 4 tháng 7 năm 1934, bức tượng khuôn mặt tổng thống Washington đã hoàn thành và được khánh thành. Người ta khánh thành bức tượng tổng thống Thomas Jefferson vào năm 1936 và bức tượng tổng thống Abraham Lincoln vào ngày 17 tháng 9 năm 1937.

Vào năm 1937, một dự luật được đệ trình lên Quốc hội nhằm tạc thêm tượng vị thủ lĩnh nhân quyền Susan B. Anthony, tuy nhiên Quốc hội đã bổ sung một phụ lục cho một dự luật đặc quyền, yêu cầu chỉ sử dụng ngân sách liên bang để hoàn thiện bốn bức tượng ban đầu. Năm 1939, bức tượng tổng thống Theodore Roosevelt được khánh thành. Xưởng Điêu khắc của Nhà Chạm khắc (Sculptor’s Studio) - một khu trưng bày mô hình và dụng cụ bằng nhựa độc nhất liên quan đến công trình điêu khắc - được xây dựng vào năm 1939 dưới dự chỉ đạo của Borglum. Borglum qua đời do bị tắc mạch máu vào tháng 3 năm 1941. Con trai ông, Lincoln Borglum, tiếp tục đảm nhiệm dự án này.

Theo kế hoạch ban đầu, người ta sẽ tạc tượng từ đầu đến thắt lưng nhưng do thiếu kinh phí nên buộc phải chấm dứt công trình. Borglum cũng dự tính dựng một tấm bảng lớn có hình dạng khu vực Louisiana Purchase với những chữ cái mạ vàng, tưởng nhớ bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp Hoa Kỳ, khu vực Louisiana Purchase cùng những vùng đất khác, từ Alaska, Texas cho tới Khu Kênh đào Panama. Nơi đây trưng bày các mô hình bằng thạch cao và các công cụ từng được sử dụng để tạc khắc các pho tượng. Mô hình 4 pho tượng bằng thạch cao mô phỏng như tác phẩm thật được đặt ở gian đầu tiên có một cửa sổ nhìn thẳng ra 4 pho tượng trên ngọn núi.

Toàn bộ dự án tiêu tốn 989.992,32 USD. Dự án trở nên nổi tiếng khi không có bất kỳ công nhân nào tử vong đối với một công trình tầm cỡ như vậy. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1966, Núi Rushmore được liệt vào Danh sách Di tích Lịch sử Quốc gia. Một bài luận của sinh viên William Andrew Burkett từ bang Nebraska đã giành chiến thắng ở hạng mục đồng đội lứa tuổi đại học vào năm 1934, đồng thời được khắc trên bảng đồng tại Entablature vào năm 1973.

Người ta xây dựng một căn phòng tại một hẻm núi phía sau nhóm tượng này, khoan vào lớp đá chỉ 70 feet (21 m), bao gồm một mái vòm với 16 bức phù điêu bằng sứ tráng men. Trên các bức phù điêu là bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp, tiểu sử của 4 vị Tổng thống cùng với Borglum và lịch sử Hoa Kỳ. Căn phòng được xem là lối vào của công trình nằm trong kế hoạch, tên là "Tiền sảnh các Kỷ lục"; mái vòm được lắp đặt vào năm 1998. Mười năm tái phát triển công trình đã đạt đến thành tựu lớn lao nhất là việc hoàn tất các tiện ích và lối đi mở rộng cho du khách vào năm 1998, chẳng hạn như Trung tâm Đón khách, Bảo tàng Lincoln Borglum cùng với Con đường Tổng thống.

Công việc bảo dưỡng khu tưởng niệm hàng năm đòi hỏi những nhà leo núi phải giám sát và bịt các vết nứt. Do ngân sách hạn hẹp nên thỉnh thoảng người ta mới cạo lớp địa y ở khu tưởng niệm. Tuy nhiên, vào ngày 8 tháng 7 năm 2005, Alfred Kärcher GmbH - một nhà sản xuất máy giặt áp suất và máy chùi rửa bằng hơi nước người Đức, đã tiến hành chùi rửa miễn phí trong nhiều tuần bằng cách phun nước áp suất cao với nhiệt độ trên 200 °F (93 °C). Cùng với thời gian, quần thể tượng đài bất hủ này được những người ngưỡng mộ coi là “biểu tượng của mọi biểu tượng” ở nước Mỹ.

Từ xa hơn 100km vẫn có thể nhìn rõ hình 4 vị tổng thống lừng danh, những vĩ nhân tượng trưng cho các tính chất tiêu biểu cấu thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ như đấu tranh giành độc lập (George Washington), vì nền dân chủ (Thomas Jefferson), mở mang kinh tế và bảo tồn môi trường thiên nhiên (Theodore Roosevelt) và bãi bỏ chế độ nô lệ (Abraham Lincoln).

 

Nói đến hoa tulip, người ta thường nghĩ đến Hà Lan, vương quốc của loài hoa này. Nhưng ở Hoa Kỳ, tiểu bang Washington cũng có những cánh đồng hoa tulip rộng lớn với đủ màu sắc, chủng loại của loài hoa kiêu sa quý phái này. 

Trong một tháng mỗi năm, gồm hai tuần cuối tháng Tư và hai tuần đầu tháng Năm, những cánh đồng hoa tulip bạt ngàn ở tiểu bang Washington nở rộ. Ở đây, mùa hoa tulip đẹp thơ mộng đến làm ngây ngất lòng người, thu hút hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới ghé thăm.

Tuy nhiên, không phải năm nào hoa cũng nở đẹp như nhau vì phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết trước đó và ngay cả trong thời gian hoa nở rộ. Hoa tulip thích không khí lạnh, nhưng lại nở tươi khi có nắng vàng. Mùa xuân ở Washington là thời gian duy nhất trong năm có nắng ấm, còn các mùa khác thì có mưa lạnh và tuyết rơi khắp nơi. Những năm điều kiện khí hậu thuận lợi, hoa tulip đua nhau nở. Những cánh đồng hoa tulip đã biến Seattle thành nơi du lịch hấp dẫn của nước Mỹ vào mùa này. Không những du khách ở các tiểu bang khác của nước Mỹ mà ngay những du khách trên thế giới cũng đến đây.

Những cánh đồng hoa tulip ở Washington rộng lớn tầm cỡ quốc tế, lại nằm cách trung tâm thành phố Seattle không xa, khoảng hơn 1 giờ 30 phút lái xe, nên việc đi lại rất dễ dàng thuận lợi. Vào mùa hoa nở, tại vương quốc hoa tulip của châu Mỹ này còn có nhiều lễ hội như lễ hội Tulip Festival thường niên tổ chức ở Skagit Valley. Tại International Tulip Peace Garden ở Tulip Town có trưng bày nhiều giống hoa tulip thuộc loại bậc nhất thế giới.

Chủng loại và số lượng hoa tulip ở đây được đánh giá là nhiều hơn cả ở vương quốc tulip Hà Lan. Có đến hàng trăm loại tulip khác nhau, kể cả một số giống mới như Jan Van Nes, King of Reds, Red Wing, Rosie Pink, Dog Tooth Violet, Sebastian… với màu sắc, hình dạng tuyệt đẹp.

Nhiều cặp tình nhân đến những vườn hoa tulip tổ chức đám cưới và chụp ảnh ngoại cảnh. Người già, trẻ em đều thích dạo chơi trên những cánh đồng hoa tulip bạt ngàn. Có nơi, hoa tulip được trồng trên một diện tích rộng lớn tạo đường nét và màu sắc thành lá quốc kỳ Mỹ. Từ trên máy bay hay khinh khí cầu, du khách sẽ chụp được những bức ảnh lá cờ Hoa Kỳ bằng hoa tulip rộng lớn, có thể nói là lớn nhất trên thế giới.

Những ai đã một lần ghé thăm vườn hoa tulip ở bang Washington vào mùa xuân sẽ chẳng bao giờ có thể quên được những giây phút tươi đẹp đã trải qua nơi đây.

 

Las Vegas là thành phố đông dân nhất ở tiểu bang Nevada, là thủ phủ của quận Clark, và là một thành phố nghỉ dưỡng, đánh bạc và ẩm thực nổi tiếng thế giới. Las Vegas nổi tiếng với các khu nghỉ dưỡng sòng bạc và các loại hình giải trí liên quan. Đây là thành phố đông dân thứ 28 ở Hoa Kỳ với dân số ước tính bởi Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là 558.383 người vào năm 2008. Dân số ước tính của vùng đô thị vào năm 2008 là 1.865.746.

Được thành lập năm 1905 như là 1 ga xe lửa nhỏ, Las Vegas chính thức trở thành thành phố vào năm 1911. Năm 1946, một tay lưu manh nổi tiếng có tên là Bugsy Siegel dựng nên sòng bài đầu tiên tại Las Vegas, vì nhiều lý do khác nhau hắn bị giết năm 1947, điều này làm cho cả hắn lẫn Las Vegas càng nổi tiếng hơn. Đầu những năm 1950, du khách đến Las Vegas không chỉ để đánh bạc mà họ đến để xem các cuộc thí nghiệm bom nguyên tử ở sa mạc nằm ngoài thành phố, ngày ấy người ta không biết nó nguy hiểm, thậm chí họ nghĩ nó rất thú vị khi xem. Với sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo, Las Vegas đã là thành phố Mỹ đông dân nhất được thành lập trong thế kỷ 20. Thành phố đã được chọn làm bối cảnh cho nhiều bộ phim, chương trình truyền hình. Thành phố này cũng có số lượng nhà thờ trên đầu dân cao nhất trong các thành phố lớn ở Hoa Kỳ.

Las Vegas là một thành phố nổi tiếng thế giới về đánh bạc. Một số người Mỹ nói vui rằng phải gọi Las Vegas là "Lost Wages" (có nghĩa là "mất hết tiền lương"). Các sòng bài và khách sạn có nhiều đèn neon đến nỗi nhiều người gọi thành phố trên sa mạc này là "Thành phố Ánh sáng". Theo thống kê, Casino đầu tiên được cấp phép năm 1931 và số lượng cấp phép địa điểm cờ bạc ở Las Vegas là 1701, một con số đáng kinh ngạc. Nhưng bạn còn ngạc nhiên hơn khi số máy slot machine trong thành phố 197.144 trong khi dân cư trong thành phố Las Vegas là 500,000. Hàng năm, có trên 36,7 triệu du khách đến với Las Vegas và chủ yếu họ đến từ miền nam California.

Mỗi khách sạn lớn ở Las Vegas đều rất đặc biệt, bước chân vào mỗi khách sạn đó du khách tưởng như bước vào một thế giới khác. Có khách sạn thì giống như Ai Cập cổ xưa, khách sạn khác thì giống như hòn đảo nhiệt đới, có cái thì giống như thành phố New York. Ở những khách sạn này luôn có những nhà giải trí nổi tiếng biểu diễn. Mọi thứ Las Vegas có vẻ đắt đỏ nhưng riêng phòng ngủ thì chỉ tốn nửa giá so với những nơi khác, các nhà hàng trong khách sạn thì bán đủ các món bạn-có-thể-ăn-được với giá phải chăng, bởi vì các khách sạn chủ yếu kiếm tiền từ sòng bạc.

Bellagio - Las Vegas Luxury Resort & Casino

Ảnh: Bellagio - Las Vegas Luxury Resort & Casino

Las Vegas cũng rất nổi tiếng về nhà thờ tiệc cưới. Cũng giống như tất cả những nơi khác ở Las Vegas, nhà thờ tiệc cưới ở đây mở cửa 24/24 và xuyên suốt 7 ngày trong tuần. Cách thức tổ chức tiệc cưới đơn giản, mỗi cặp vợ chồng chỉ trả vài chục đô-la cho một giấy đăng ký kết hôn và họ có thể cưới ngay lập tức mà không cần phải chờ đợi thêm bất cứ điều gì, kể cả không cần giấy chứng nhận độc thân. Trong nhiều năm, Las Vegas đã trở thành sự lựa chọn cho ngày vui trong cuộc đời của những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng.

Hiếm có nơi nào trên thế giới khiến bạn có hứng thú tiêu tiền nhiều đến thế và có thể hoà mình vào những trò giải trí sôi động đến thế. Ở Las Vegas , mỗi casino là một thành phố thu nhỏ, tái hiện gần như trọn vẹn những nét đặc trưng của từng địa phương như: casino Paris với tháp Eiffel và những nghệ sĩ hát rong trên đường phố; casino Venice với dòng sông xanh thơ mộng, những người chèo thuyền Gondola chở các cặp tình nhân đi dạo; casino Wynn với vườn nhiệt đới và thác nước trên sa mạc; hay casino Luxor với kiểu kiến trúc Kim tự tháp độc đáo…Khu liên hợp casino – khách sạn ở Las Vegas rộng đến vài chục mẫu, ngoài khu giải trí, casino, khách sạn, còn có 4 rạp hát mini, phòng hội nghị, vũ trường, và hàng chục nhà hàng thiết kế đủ phong cách.

Một trong những điểm hấp dẫn khác của Las Vegas chính là các chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng. Đêm Las Vegas sống động với những vở kịch đầy màu sắc, sự kết hợp tuyệt vời giữa nhiều loại hình nghệ thuật. Trong số đó, lôi cuốn, hấp dẫn và nhiều màu sắc nhất phải kể đến sô diễn “Le Rêve” (Giấc mơ) trên sân khấu nước ở Casino Wynn. Đây là một vở kịch đầy trí tưởng tượng quy tụ 60 diễn viên nhào lộn trên không và dưới nước cùng kết hợp biểu diễn. Trong 90 phút, các nghệ sĩ sẽ liên tục đưa người xem đi từ giấc mơ này sang giấc mơ khác

Ở Las Vegas , du khách có rất nhiều lý do để tiêu tiền. Và khó mà tiết kiệm hầu bao khi bạn đã đặt chân đến các trung tâm thương mại như Forum Shops , Grand Canal Shoppes, Fashion Show Mall… Trong đó, chỉ riêng Forum Shops đã có hơn 50 cửa hàng thời trang cao cấp của các nhãn hiệu nổi tiếng như Pucci, Custo Barcelona, Victoria’s Secret, Christian Dior… Forum Shops còn nổi tiếng với sô diễn Atlantis do 3 tượng người sống động y như thật trình diễn mỗi giờ một lần, trên hồ cá sức chứa 50.000 gallon nước biển và hàng trăm loài sinh vật biển phong phú. Đây cũng là nơi duy nhất có cầu thang cuốn hình cong 2 tầng.

Nếu bạn muốn tận hưởng cảm giác khoáng đạt của thiên thiên sau những náo nhiệt, ồn ào của thành phố, hãy đến thăm Grand Canyon đại vực kỳ bí, nếu bạn muốn biết cảm giác choáng ngợp và xa hoa trong những sòng bạc lớn và có hứng thú vài ván với canh bạc đỏ đen, hãy thử một lần đến Las Vegas.

 

Nếu có dịp du lịch Mỹ đến thành phố San Diego, bang California, vào mùa xuân, du khách không thể bỏ qua cánh đồng hoa mao lương (Ranunculus) rộng tới hơn 20ha Carlsbad Ranch Flower Fields tại thành phố Carlsbad trải dọc bờ biển California. Dạo bước trên những con đường dọc cánh đồng hoa giữa cái nắng ấm ngập tràn và ngắm nhìn sức sống căng tràn tỏa ra xung quanh, khung cảnh này chắc hẳn sẽ khiến bất kỳ du khách nào cũng có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.

Loài hoa mao lương này được trồng bằng củ, một cây có thể nở tới chục bông hoa với nhiều màu sắc sặc sỡ. Hoa có chiều cao khoảng 45cm. Từ giống hoa nguyên thủy cánh đơn với hai màu cơ bản đỏ và vàng, đến nay hoa mao lương tại Carlsbad đã có đến 16 màu lộng lẫy.Vườn hoa khổng lồ The Flower Fields San Diego mở cửa mỗi ngày từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều, rực rỡ muôn nghìn màu sắc, trông như một bức tranh khổng lồ. Tại đây du khách có thể hòa mình vào khu trồng hoa theo dạng mê cung. Các luống hoa được trồng rất đều, từng màu một, trắng, đỏ, vàng, cam, nâu, tím... rất thẳng hàng. Tất cả các luống hoa đều được bao bọc xung quanh bằng những băng nhựa màu vàng không cho du khách bước vào. Tuy nhiên, tại một vài nơi, người ta chừa một số khoảng trống để du khách có thể bước vào, ngồi sát luống hoa và chụp hình lưu niệm.

Một số du khách không muốn đi bộ thì có thể mua vé ngồi trên một chiếc xe do một xe máy cày kéo, chở đi vòng quanh đồi ngắm hoa. Trên xe có một hướng dẫn viên kể về các loại hoa Ranunculus và lịch sử của The Flower Fields. Ði lên phía đỉnh đồi, người ta thấy nhiều nhân công đang bó những bó hoa Ranunculus đủ màu để bán cho các khu chợ địa phương, và bạn có thể mua vài bó hoa làm kỷ niệm. Lên tới đỉnh đồi, du khách có thể thấy toàn bộ đồi hoa nằm trên xa lộ 5. Phía bên trái là một khu nhà màu xám thanh lịch, mờ ảo trong sương mù của biển Thái Bình Dương, trông rất thơ mộng. Phía sau khu nghỉ chân này là một khách sạn lớn để du khách từ xa đến ở. Tất cả các phòng đều quay mặt ra đồi hoa. Ngồi trên lan can một buổi sáng có thể thấy một đồi hoa đầy màu sắc nổi bật, phía xa xa từng con sóng biển vỗ vào bờ các bãi biển...

Lịch sử của The Flower Fields San Diego bắt đầu cách đây hơn 60 năm khi một nhà làm vườn người Anh tên Luther Gage cùng gia đình chuyển đến sinh sống ở miền Nam California. Ông Gage rất yêu loài hoa mao lương Ranunculus tuyệt đẹp, đặc biệt là giống hoa Ranunculus lớn, gọi là Tecolote. Chính vì vậy, khi sang Hoa Kỳ, ông Gage đã mang theo một ít hạt giống và sau đó trở thành người đầu tiên trồng loại hoa này tại Bắc Mỹ.

Lúc định cư tại Quận San Diego, gia đình ông Gage nhận ra thời tiết lý tưởng để trồng loại hoa này. Thế là ông trồng một vài acre trong phần đất của mình, mà sau này tên là Gage Tecolote Ranch, và bắt đầu mướn nhân công trồng hoa. Một trong những nhân công này là ông Frank Frazee. Ngoài ra, hai người con của ông Frazee, Earl và Edwin, cũng thường đến phụ cha mình làm việc, như tưới nước những luống hoa và trồng hoa, mỗi ngày, sau giờ học.

Sau một thời gian, gia đình ông Frazee bắt đầu mở trang trại trồng hoa Ranunculus cho riêng mình và không lâu sau trở thành nhà trồng trọt hoa Ranunculus mang tính thương mại duy nhất tại Hoa Kỳ. Năm 1933, một trong hai người con của ông Frazee là Edwin Frazee giúp gia đình chăm sóc và phát triển và thành công đáng kể với những trang trại trồng hoa Ranunculus vùng Agua Hedionda, phía Bắc Quận San Diego.

Năm 1938, gia đình ông Frazee chuyển sang trang trại Santa Margarita Ranch tại Stuart Mesa và tiếp tục trồng hoa Ranunculus để đáp ứng nhu cầu gia tăng và tiếp tục phát triển trong 45 năm sau đó. Cũng trong thời gian này, người ta bắt đầu chú ý trang trại trồng hoa của gia đình ông Frazee, đặc biệt là những luống hoa trên đồi tạo thành nhiều màu của cầu vồng, nhất là vào Mùa Xuân. Thế là du khách bắt đầu ghé vào xem hoa trong trang trại.

Với kỹ thuật tưới nước tiên tiến, lần đầu tiên nước được dẫn vào miền Nam California, gia đình ông Frazee lại phát triển trang trại trồng hoa Ranunculus một lần nữa vào năm 1958 tại phía Nam khu vực Ponto, thuộc thành phố Carlsbad, và được trồng trên những ngọn đồi kế cạnh xa lộ 5. Một lần nữa, với sự thông thương gia tăng giữa San Diego và Los Angeles, ngày càng có nhiều du khách ghé qua xem hoa vì rất tiện lợi. Dần dần, những ngọn đồi này được cư dân Carlsbad gọi là Flower Fields (Những Cánh Ðồng Hoa) và coi như là di sản của họ. Năm 1993, những cánh đồng hoa này được đặt tên chính thức là The Flower Fields và gia đình ông Frazee chính thức không làm chủ trang trại này nữa.

Chính phương pháp trồng và chọn hoa Ranunculus của ông Frank Frazee đã làm ông trở thành một chuyên gia về loại hoa này trong nhiều cuộc nghiên cứu của nhiều trường đại học và cơ sở nông nghiệp. Hiện nay, mỗi năm có khoảng 150,000 người đến xem hoa Ranunculus, mà nhiều người trong số họ trở lại nhiều lần, đông nhất là vào Mùa Xuân, đầu Tháng Ba đến giữa Tháng Năm. The Flower Fields vẫn là một nơi cung cấp hoa và là nơi trồng hoa Ranunculus duy nhất trên thế giới để cho du khách vào xem hoa cận cảnh.

Khu vườn The Flower Fields thu hút rất nhiều người Việt Nam từ San Diego đến đây thưởng lãm, chụp ảnh. Nhiều du khách phải công nhận khu vườn quả là một kỳ công quá đẹp của con người. Nhiều người mua vé cả năm, hễ có thời gian là họ tham quan, đặc biệt là các họa sĩ thường chọn nơi này làm bối cảnh cho những tác phẩm của họ. 

Một số nhân viên làm việc tại vườn hoa là những người đã về hưu, họ tới làm them tại trang trại trong Mùa Xuân, khi có nhiều du khách đến. Bản thân họ là những người yêu hoa, công việc tại đây vừa bổ sung chút thu nhập, vừa được ngắm hoa lớn lên từng ngày và vừa được gặp những người cùng yêu thích hoa. Tình yêu hoa cỏ của nhân viên cũng là yếu tố làm nên khu vườn có một không hai trên thế giới, không những hoa đẹp mà mọi người đến đây ai cũng nở nụ cười khi ra về.

 

Nằm trên một bến cảng tự nhiên lớn thuộc duyên hải Đại Tây Dương của Đông Bắc Hoa Kỳ, thành phố gồm có năm quận: The Bronx, Brooklyn, Manhattan, Queens, và Đảo Staten. Dân số thành phố được ước tính vào năm 2013 khoảng trên 8,4 triệu người, với một diện tích đất là 789,4 km² (304,8 mi²). Dân số Vùng đô thị New York được ước tính là 18,8 triệu người trên diện tích 17.405 km² (6.720 dặm vuông Anh). Đây cũng là vùng đô thị đông dân nhất Hoa Kỳ.

New York nổi bật trong số các thành phố Mỹ sử dụng phương tiện giao thông công cộng nhiều nhất. Đa số các phương tiện giao thông này hoạt động 24 tiếng mỗi ngày. Năm 2005, có chừng 170 ngôn ngữ được nói trong thành phố và khoảng 36% cư dân của thành phố được sinh ra bên ngoài Hoa Kỳ. Thành phố đôi khi còn được gọi là "Thành phố không bao giờ ngủ" hay có những biệt danh khác như "Gotham" và "Quả táo lớn".

New York được người Hà Lan thành lập như một trạm mậu dịch thương mại vào năm 1624. Vùng định cư này lúc đó từng được gọi là Tân Amsterdam cho đến năm 1664 khi thuộc địa này bị Vương quốc Anh kiểm soát. New York được chọn làm thủ đô của Hoa Kỳ từ năm 1785 đến năm 1790, và nó là thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ kể từ năm 1790.

Nhiều khu dân cư và danh lam thắng cảnh của thành phố trở nên nổi tiếng trên thế giới. Tượng Nữ thần Tự do đã chào đón hàng triệu di dân khi họ đến Mỹ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Phố Wall, trong vùng Hạ Manhattan, là một trung tâm tài chính quốc tế bề thế kể từ Đệ nhị Thế chiến và là nơi có Thị trường Chứng khoán New York. Thành phố cũng là nơi có nhiều tòa nhà nằm trong số những tòa nhà cao nhất trên thế giới, trong đó có Tòa nhà Empire State và tháp đôi của cựu Trung tâm Thương mại Thế giới.

New York là nơi sản sinh ra nhiều phong trào văn hóa trong số đó có Phục hưng Harlem thuộc lĩnh vực văn chương và mỹ thuật, chủ nghĩa trừu tượng biểu hiện thuộc lĩnh vực hội họa, và hip hop,[14] punk,[15] salsa, disco và Tin Pan Alley thuộc lĩnh vực âm nhạc. Thành phố còn là một trung tâm của nghệ thuật sân khấu, nơi có nhà hát Broadway.New York hoa lệ dù không phải là thủ đô của nước Mỹ nhưng lại khá nổi tiếng là một thành phố năng động, trẻ trung và hiện đại bậc nhất ở đất nước này. Ở New York có những địa điểm thú vị mà bạn không thể không ghé thăm khi đến đây.

 

Tượng Nữ thần Tự Do

Tượng nữ thần Tự Do được đặt ở cửa sông Hudson nhìn ra cảng New York. Đây là địa điểm nổi tiếng nhất ở thành phố này cũng như của nước Mỹ. Tượng được thiết kế với hình dáng của một người phụ nữ một tay cầm cuốn sách và một tay dâng cao bó đuốc tượng trưng cho sự hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Dưới chân bức tượng, mọi xiềng xích đều vỡ vụn biểu đạt cho ý nghĩa giải thoát khỏi mọi bó buộc, nô dịch và vươn tới sự tự do hoàn toàn. Tượng nữ thần Tự Do chắc chắn là địa điểm không thể bỏ qua khi đến thành phố New York. Nếu nhập cư vào Mỹ từ hướng Đông, đây cũng là hình ảnh đầu tiên mà bạn nhìn thấy.

 

Quảng trường Thời Đại – Times Square

Quảng trường Thời Đại là giao lộ chính ở Manhatta, nối đại lộ Broadway  và đại lộ số 7, kéo dài từ đường thứ 42 đến đường thứ 47 tại Tây New York. Vì là giao của nhiều trục đường lớn và quan trọng nên quảng trường Thời Đại còn được mệnh danh là “giao lộ của thế giới”. Đến đây bạn sẽ choáng ngợp bởi không khí sôi động, náo nhiệt của những khu phố luôn lấp lánh ánh đèn. Bao quanh quảng trường là những nhà hàng, quán cà phê, cửa hàng thời trang… lúc nào cũng sáng đèn quảng cáo. Bên cạnh đó khu phố kịch nghệ nổi tiếng Broadway quy tụ hơn 40 sân khấu hoành tráng và thường xuyên biểu diễn nghệ thuật sẽ khiến bạn không giây phút nào cảm thấy buồn tẻ ở thành phố New York.

 

Nhà hát Broadway

Được mệnh danh là trung tâm nghệ thuật của New York, nhà hát Broadway nằm rất gần khu vực quảng trường Thời Đại. Nơi đây quy tụ những sân khấu hoành tráng và những nghệ sĩ tên tuổi. Các vở kịch nổi tiếng được biểu diễn thường xuyên như “Vua sư tử”, “Những người khốn khổ”… Nhà hát Broadway với sân khấu quy mô rộng lớn, hệ thống âm thanh ánh sáng hiện đại và những màn trình diễn được dàn dựng công phu, đạt tới đỉnh cao chất lượng. Thưởng thức những vở kịch xuất sắc ở Broadway sẽ không làm bạn hối tiếc. Tuy nhiên, nếu không phải là người yêu nghệ thuật, bạn hoàn toàn có thể chỉ tới Broadway để tận hưởng không khí đông vui và chiêm ngưỡng sự hào nhoáng của nó.

 

Đài quan sát Top of the Rock

Ai đến New York cũng muốn một lần được đặt chân trên đài quan sát Top of the Rock để chiêm ngưỡng sự giàu có và lấp lánh của toàn cảnh thành phố New York. Với vị trí thuận lợi, đây là nơi có thể giúp du khách thu vào tầm nhìn toàn bộ cảnh quan của một New York không bao giờ ngủ. Đài quan sát này cũng từng xuất hiện trong rất nhiều bộ phim của Hollywood.

 

Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan Museum of Art

Đây là bảo tàng nghệ thuật với trên 200 năm tuổi, là bảo tàng nghệ thuật lớn nhất thế giới tính đến thời điểm hiện tại và là nơi lưu giữ rất nhiều những tác phẩm nghệ thuật có giá trị trên toàn thế giới như những bức họa của Van Goh, Monet hay những báu vật của La Mã cổ đại. Đến bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, bạn sẽ được chu du vòng quanh thế giới: từ những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của châu Âu cho tới những tác phẩm của Ai Cập, Hy Lạp, Trung Đông…Nơi đây trở thành một trong những địa điểm hấp dẫn nhất đối với khách du lịch khi tới thành phố New York, trung bình mỗi năm bảo tàng đón tới 4 triệu lượt khách tham quan.

 

Đài tưởng niệm quốc gia 11 tháng 9

Chắc chắn rằng cả nước Mỹ cũng như toàn bộ người dân New York không thể nào quên được ngày 11 tháng 9 kinh hoàng của năm 2001, khi tòa tháp đôi ở thành phố bị khủng bố và cướp đi sinh mạng của hàng trăm người dân vô tội. Đài tưởng niệm quốc gia 11 tháng 9 được xây dựng trên đúng vị trí của tòa tháp đôi năm xưa và khánh thành tròn 10 năm sau khi vụ khủng bố kết thúc. Những người dân trong thành phố và những người có thân nhân thiệt mạng trong vụ khủng bố vẫn thường xuyên tới đây để thắp hương và tưởng nhớ đến người thân của mình.

 

Công viên Central Park

Công viên trung tâm được ví như một viên ngọc xanh của thành phố New York với không gian trong lành, cỏ cây xanh tốt. Bạn có thể tránh xa những phố thị ồn ào, trốn mình trong không gian yên bình ở công viên, lắng nghe tiếng chim chóc véo von, tiếng đàn ghi ta bập bùng của những người hát dạo và thưởng thức chút bánh quế bí ngô thơm ngon ngay tại công viên này.

 

Khu phố cổ kính West Village

Khu phố cổ này vẫn tồn tại ở New York bất chấp sự phát triển không ngừng nghỉ của cả thành phố. Nơi đây vẫn còn lưu giữ những nét đẹp cổ kính từ thế kỉ XIX với những con đường lát sỏi, mái nhà rêu phong và hàng cây im lìm. Đến khu phố cổ này, bạn có thể thưởng thức những chiếc bánh cupcake mới ra lò thơm ngon nhất New York.

 

Rạp chiếu phim Film Forum

Năm trên đường phố West Houston, một loạt những rạp chiếu phim thường xuyên trình chiếu những tác phẩm điện ảnh kinh điển chắc chắn là địa điểm yêu thích của những tín đồ mê phim.

 

Trung tâm nghệ thuật đương đại P.S.1 

Trung tâm nghệ thuật đương đại P.S.1 hay còn gọi là MoMa P.S.1 tọa lạc trong khuôn viên của một ngôi trường công lập, là ngôi nhà của những tác phẩm nghệ thuật đương đại hàng đầu thế giới. Mọi ý tưởng đôi khi tưởng như bất khả thi đều được trình diễn ở đây. Đến MoMa P.S.1, bạn có cơ hội chiêm ngưỡng những cuộc so tài nghệ thuật đỉnh cao nhất thế giới.

 

Phố Wall

Phố Wall là quê hương của chứng khoán New York với các tòa nhà lâu đời. Phố Wall được đặt tên theo một bức tường gỗ nhỏ được người Hà Lan xây dựng vào năm 1653 để đánh dấu giới hạn phía Bắc của New Amsterdam. Thương mại luôn là xương sống của sự giàu có ở New York. Vào 1792, 24 người lái buôn đã kí thỏa thuận chỉ hợp tác với nhau và từ đó trao đổi chứng khoán ở New York được ra đời. Các thành viên được giới hạn một cách nghiêm khắc và vào năm 1817 giá của mỗi chỗ ngồi là 25$, hiện nay thì nó đã lên tới 2 triệu $. Có 17 cổng giao dịch, mỗi cổng bao gồm 22 khu vực của người trao đổi và thiết bị công nghệ sử dụng để trao đổi. Mỗi cổng trao đổi chứng khoán của 10 công ty.

 

Chợ Pike Place được gọi là linh hồn của thành phố Seattle. Những người bán cá tại Pike Place luôn sống và làm việc với niềm say mê tột độ, tận tụy và hết lòng vì khách hàng. Họ luôn tạo ra nguồn cảm hứng sáng tạo, làm cho cuộc sống trở nên năng động, tràn đầy sinh lực, niềm vui. Từ ngôi chợ này đã ra đời ý tưởng cho bộ sách "Triết lý chợ cá cho cuộc sống" - một tác phẩm từng 3 năm liền là sách bán chạy nhất Hoa Kỳ và được dịch ra trên 30 ngôn ngữ.

Được thành lập từ năm 1907, Pike Place là chợ nông thủy sản lớn nhất bang Washington. Chợ nằm ở trung tâm thành phố Seattle, là một trong những điểm thu hút khách du lịch khi đến thăm quan thành phố này. Ngôi chợ này rộng trên 3,5 hectar bao gồm nhiều tòa nhà liên kết lại.

Khu chợ Pike Place là một nơi độc đáo không giống bất cứ nơi nào khác. Nơi đây vừa là nơi giải trí, vừa là nơi thân thiện để nán lại và trò chuyện với người chủ cửa hàng và bạn có thể mua tất cả mọi thứ từ những mánh ảo thuật đến toa thuốc Viễn Đông hay rượu vang và pho mát của địa phương. Nơi đây còn có cả thư viện công cộng ở tầng trệt nếu bạn muốn có chút không gian tĩnh tại.

Những nghệ sĩ đường phố và những người bán hàng vui vẻ mời chào khách trên những con phố lát đá cuội nhộn nhịp của Khu chợ Pike Place. Nơi đây có khoảng 200 quầy hàng và cửa hiệu, một số là của gia đình và đã được truyền lại qua nhiều thế hệ. Giữa nhiều lối rẽ rộng trên trục đường chính có mái vòm, bạn sẽ cảm nhận được sự phong phú của âm thanh, mùi vị và khung cảnh. Hãy dùng thử các loại trái cây theo mùa, ngửi hương thơm của những bó hoa và chiêm ngưỡng đồ trang sức và mỹ nghệ được làm bằng tay.

Các quán cà phê ấm cúng, các quầy thuốc đông y, quán bar nhỏ, các quầy thợ làm phô mai và các sạp hoa quả trồng theo phương pháp hữu cơ sẽ thu hút ánh mắt bạn và lôi kéo ví tiền của bạn. Bên dưới khu chợ truyền thống là một tầng các hiệu sách nhỏ, và các cửa hàng đồ gốm và đồ cổ, cửa hàng quần áo và các siêu thị đặc sản lý tưởng cho những ai thích mặc cả.

Ảnh: Những người bán cá đang bày trò vui đùa cùng khách du lịch

Chỉ nằm cách bờ biển Seattle vài bước, Khu chợ Pike Place nổi tiếng với các quầy hàng cá tươi. Đừng ngần ngại đến gần và xem sự vô cùng đa dạng phong phú của hải sản đang được bày trước mắt bạn: chân cua Alaska, hàu, cá hồi và các loại cá khác được bày trên lớp đá. Những người bán cá cạnh tranh nhau bằng những trò giải trí độc đáo, họ mặc bộ đồ ngư dân biểu diễn nghệ thuật ném cá trong lúc đùa vui với khách hàng. Du khách có thể còn nhìn thấy một con cá đột nhiên nhảy lên với cái miệng đang đớp mà không chút ngờ vực - tất cả là do một người vui tính phía sau quầy thanh toán đã kéo sợi dây. Tất cả làm tăng thêm bầu không khí thuần chất tự nhiên của khu chợ sôi động này.

Khi màn đêm buông xuống, các nghệ sĩ đường phố sẽ nhường chỗ cho nhạc jazz biểu diễn trực tiếp và các ca sĩ biểu diễn trong những quán lâu đời được yêu thích như Pink Door và quán bar táo bạo mà rất lôi cuốn Can Can. Ngày nay, chợ Pike Place với trên 10 triệu du khách tới đây hàng năm đã trở thành một phần không thể thiếu của Seattle và đóng góp vào nhịp sống năng động của thành phố này.

 

Four Corners là nơi giao thoa của các bang Arizona, Colorado, New Mexico và Utah, tạo nên một vành đai biên giới địa phương độc đáo trên thế giới. Khi tới thăm đất nước của Nữ thần Tự Do, du khách sẽ được giới thiệu về một địa điểm nổi tiếng và độc đáo - nơi đặt đài kỷ niệm có tên gọi "Đài tưởng niệm 4 góc - Four Corners", nằm ở sa mạc thuộc khu dành riêng cho người bản địa Mỹ (Navajo Indian Reservation).

Four Corners có nhiệm vụ đánh dấu ranh giới giữa các bang Arizona, Colorado, New Mexico, Utah và cũng là nơi duy nhất trên nước Mỹ bạn có thể cùng lúc đứng trên lãnh thổ của 4 nơi. Không giống các điểm du lịch chính trị khác trên thế giới như Bức tường Berlin, Four Corners tượng trưng cho sức mạnh, sự đoàn kết của người Mỹ trong việc thành lập liên bang. Đài tưởng niệm được làm bằng đá granite, ở giữa là một đĩa bằng đồng lớn và ghi dòng chữ "Bốn bang ở đây tự do dưới sự che chở của Chúa". Bốn đĩa nhỏ hơn nằm ở bốn phía các bang, trên có khắc con dấu và cờ đại diện.

Ảnh: Four Corners nơi cùng lúc bạn có thể đứng trên 4 tiểu bang.

Dù nằm ở địa điểm heo hút, cách xa thành thị náo nhiệt và thiếu thốn cơ sở vật chất, chính sự giao nhau mới lạ này đã khiến nơi đây rất hút du khách. Theo ước tính của chính quyền địa phương, mỗi giờ có tới hàng trăm người đổ về đây để chụp ảnh và tham quan "tượng đài bốn phương hội tụ" này. Xung quanh đài tưởng niệm là các cửa hàng do người dân địa phương mở để bán đồ lưu niệm cũng như thức ăn cho du khách.

Đường giao nhau của các biên giới bang lần đầu được đánh dấu bằng một trục đá sa thạch vào năm 1875 bởi nhà nghiên cứu nổi tiếng Chandler Robbins. Năm 1899, trục đá này bị hỏng nên đã được thay bằng một tảng đá mới. Sau nhiều năm được sửa đổi, nâng cấp và tu sửa, tượng đài đã có hình dáng như ngày nay. Lần sửa sang gần đây nhất là vào năm 2010. Độ chính xác của khu vực này được cơ quan Điều tra trắc địa và tượng đài Mỹ xác định góc của bốn tiểu bang ngày nay là hợp hiến.

Mỹ có được khu vực này từ Mexico sau khi kết thúc chiến tranh Mỹ - Mexico vào năm 1948. Năm 1863, quốc hội Mỹ lập ra vùng lãnh thổ Arizona từ phần phía tây của lãnh thổ New Mexico với ranh giới được xác định như một đường chạy về phía nam vì từ góc phía tây nam của lãnh thổ Colorado đã được tạo ra vào năm 1861. Đây là một hành động bất thường của quốc hội - khi mà trước đó họ hầu như luôn xác định ranh giới của các vùng lãnh thổ mới bằng vĩ độ, kinh độ hoặc theo sông.

 

Đài tưởng niệm Washington là khối kiến trúc cao nhất thủ đô Hoa Kỳ và cũng là công trình gặp nhiều gian nan nhất khi xây dựng. Được mở cửa vào tháng 10/1888, ngọn tháp tưởng nhớ đến vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ mất cả thế kỷ từ khi lên kế hoạch đến khi xây dựng xong. Đài tưởng niệm có hình dáng khác hẳn kiến trúc ban đầu và còn nhiều những sự thật lý thú đằng sau công trình vinh danh vị cha đẻ của nước Mỹ.

Kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm bắt đầu từ trước khi Washington trở thành tổng thống. Năm 1783, Quốc hội (Continental Congress) đã đồng tình dựng nên bức tượng Washington để tỏ lòng kính trọng đến người lãnh đạo quân đội Mỹ trong cuộc Cách mạng chống lại người Anh. Tuy vậy, sau khi George Washington trở thành tổng thống, ông đã bác bỏ kế hoạch này bởi ngân sách liên bang đang được thắt chặt và bản thân không muốn sử dụng tiền của nhân dân. Sau khi Washington mất năm 1799, quốc hội đưa ra bàn thảo kế hoạch xây dựng lăng mộ cho ông hình kim tự tháp đặt trong điện Capitol. Tuy vậy, đồ án này đã không trở thành hiện thực.

Năm 1883, một nhóm người tôn thờ Washington bày tỏ sự bất bình vì chưa hề có công trình nào được xây dựng để tưởng nhớ ông tại thủ đô. Họ đã thành lập tổ chức mang tên Washington National Monument Society để gây quỹ cho dự án. Người đứng đầu là John Marshall lập ra hẳn cuộc thi thiết kế tượng đài kỷ niệm về người anh hùng của đất nước và kiến trúc sư Robert Mills (1781–1855) đã giành chiến thắng. Ông cũng chính là tác giả hai công trình tòa nhà ngân khố quốc gia và văn phòng sáng chế Mỹ mà hiện tại là gallery trưng bày chân dung các nhà lãnh đạo quốc gia và viện bảo tàng nghệ thuật Smithsonian.

Thiết kế nguyên bản đài tưởng niệm khác hẳn công trình hiện tại. Bản vẽ của Robert Mills có hình dáng ngôi đền thờ các vị thần kiểu Hy Lạp với 30 cột đá, tượng Washington đang cưỡi chiến xa sẽ nằm trên lối vào. Ngoài ra còn một cột đá kiểu Ai Cập cao khoảng 180 m vươn lên từ chính giữa ngôi đền. 

Ngày 4/7/1848, viên đá đầu tiên được đặt xuống và bên trong họ đóng một chiếc hộp chứa chân dung George Washington, những tờ báo viết về ông, đồng tiền xu và bản copy của hiến pháp. Buổi lễ có sự góp mặt của hàng nghìn người và một nhân vật sau này cũng nổi tiếng không kém đến từ Illinois, Abraham Lincoln cũng tham dự (sau này là tổng thống thứ 16 của Mỹ).

Việc xây dựng được tiến hành đến năm 1854, khi ngọn tháp đạt độ cao 45 m, kinh phí ngày càng hạn hẹp khiến công trình gần như dậm chân tại chỗ. Cùng năm đó, những người nhập cư có tư tưởng chống Cơ Đốc giáo giận giữ vì giáo hoàng Pius IX đã lấy từ ngôi đền La Mã cổ đại ở Italy một khối đá để tặng cho tượng đài. Họ tìm cách lấy đi khối đá kia và chiếm luôn quyền xây dựng ngọn tháp, nhưng chỉ tiếp tục được một thời gian ngắn và rồi bỏ không trong vài năm. May mắn thay, công trình vẫn đứng vững sau cuộc nội chiến.

Năm 1876, kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh Mỹ, Tổng thống Ulysses Grant đã trích quỹ liên bang để hoàn thành tháp kỷ niệm và công việc xây dựng được bắt đầu trở lại năm 1879. Thời gian này, phong cách kiến trúc cũng đã thay đổi, ngôi đền thờ đã bị xóa bỏ khỏi thiết kế ban đầu. Thêm nữa, 2 thập kỷ gián đoạn đã làm cho nguồn cung cấp đá khác nhau khiến màu sắc và khả năng nối ghép gặp trở ngại. Kết quả là ngọn tháp có 2 màu, nhạt ở bên dưới và đậm hơn ở bên trên. Năm 1884, công trình từ từ được hình thành rõ nét hơn và khi khánh thành năm 1888, đài kỷ niệm đạt độ cao 169 m, nặng hơn 81.000 tấn. Đó là khối kiến trúc do con người xây dựng cao nhất thế giới cho đến khi tháp Eiffel (Paris, Pháp) hoàn thành năm 1889.

Đài tưởng niệm từng là nơi bắt giữ con tin. Ngày 8/12/1982, Norman Mayer, cựu binh hải quân Mỹ 66 tuổi đã lái chiếc xe được cho là chứa 1000 pounds (450 kg) thuốc nổ đến chân tháp và đe dọa châm ngòi. Một nhóm du khách bị mắc kẹt trong tháp vài giờ trước khi Mayer (người muốn gây chú ý với lập trường chống lại vũ khí nguyên tử) thả họ đi. Hàng nghìn nhân viên đang làm việc trong các tòa nhà xung quanh được lệnh di tản, đường phố bị đóng, các chuyến bay trong khu vực phải chuyển hướng. Sau khoảng 10 giờ thương lượng, Mayer đã lái chiếc xe ra khỏi đài kỷ niệm và bị bắn chết. Tuy vậy, khi giới chức trách kiểm tra, họ không tìm thấy bất cứ chất gây nổ nào trong xe.

Ngày 23/8/2011, đài tưởng niệm đã bị chấn động bởi trận động đất hiếm thấy lên đến 5,8 độ richter có tâm chấn tại Mineral, bang Virginia. Những vết nứt được tìm thấy và nhiều lớp vữa bị bong tróc. Không ai trong tháp bị thương nặng khi trận động đất xảy ra. Từ đó đài tưởng niệm được đóng cửa để trùng tu với kinh phí dự tính khoảng 15 triệu USD và mở cửa trở lại năm 2014.

Đài tưởng niệm có thể là công trình nổi tiếng nhất về Washington nhưng không phải là duy nhất. Vị anh hùng khai sinh ra nước Mỹ George Washington đã được người dân hết sức trân trọng. Họ dùng tên ông để đặt cho thành phố, đường cao tốc, hồ nước, núi, trường học và hầu hết các bang đều có công trình nào đó mang tên Washington. Sau khi mất, ông cũng được dựng nhiều đài kỷ niệm khác như ở Boonsboro, Maryland với tháp đá cao 11 m hoàn thành năm 1827 và đài tưởng niệm ở Baltimore cao 54 m hoàn thành năm 1829 do Robert Mills thiết kế (tác giả của đài tưởng niệm nổi tiếng tại thủ đô).

Điều gì có thể khiến thác Niagara thu hút hơn 10 triệu lượt khách đến tham quan mỗi năm? Bí mật nằm ở chỗ bạn có thể du lịch thác Niagara bốn mùa trong năm, ôn hòa vào mùa xuân, hùng vĩ vào mùa hè, đẩy sắc vàng đỏ vào mùa thu và màu trắng của những bông tuyết khi mùa đông về, mỗi một mùa thác Niagara lại mang một vẻ đẹp rất riêng.

 

Mùa xuân

Nếu như bạn đang cố gắng để cân bằng giữa việc giá cả phải chăng, thời tiết ôn hòa và nhiều hoạt động du lịch phong phú thì hãy đến thăm Niagara vào mùa xuân. Hầu hết những hoạt động du lịch tại đây đều mở cửa trở lại từ giữa tháng 4, đầu tháng 5, khi mà nhiệt độ trở nên ấm áp và những bông hoa bắt đầu nở rộ, cây cối đâm chồi nảy lộc khắp muôn nơi. Đây cũng là thời điểm thích hợp để ghé thăm Vườn Bách thảo Niagara và được miễn phí vé vào cửa.

Giá cả cho các dịch vụ vào mùa xuân khá phải chăng, tuy không rẻ như vào giữa mùa đông nhưng cũng rẻ hơn tương đối nhiều so với mùa du lịch cao điểm là hè và  thu ở nơi đây. Đến với thác Niagara vào mùa xuân, bạn có thể chiêm ngưỡng tháp Niagara trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, đồng thời bạn cũng không phải chờ đợi quá lâu khi đi thăm quan ở những điểm du lịch nổi tiếng.

 

Mùa hạ

Mùa hạ là mua cao điểm du lịch ở thác Niagara. Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 9, hầu hết những điểm tham quan và dịch vụ đều mở cửa khá muộn, từ 9h đến 20h hàng ngày. Nếu bạn đến thác Niagara vào mùa hè, hãy bắt đầu hành trình của mình với con tàu du lịch hai tầng mang tên Maid of the Mist, đưa bạn đến thác Mỹ (American Falls) rồi vòng đến thác Móng ngựa (Horseshoe Falls). Các chuyến du lịch trên tàu Maid of the Mist chỉ có từ tháng 4 cho đến cuối tháng 10, và mỗi chuyến kéo dài khoảng 30 phút.

Bạn có thể nhìn thấy thác từ những góc độ khác nhau, và thật sự sẽ cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên hùng vĩ qua hành trình đằng sau thác nước. Một chuyến thang máy nhanh chóng sẽ đưa bạn tới một mê cung đường hầm dẫn tới đài quan sát, nơi thác Niagara chảy ầm như sấm rền ngay phía sau lưng, đúng như tên gọi của nó (Niagara có nghĩa là “Thần Sấm”).

Sau đó, hãy tham gia vào chương trình mang tên Niagara’s Fury để có thể hiểu rõ về quá trình hình thành của nó. Chương trình gồm có 2 phần. Đầu tiên bạn sẽ được xem một bộ phim hoạt hình ngắn, cung cấp những thông tin về sự hình thành của thác trong thời kỷ băng hà từ cách đây hàng triệu năm. Tiếp đó bạn sẽ được đưa đên rạp hát, nơi mà ánh đèn flash cùng những hiệu ứng như mặt đất rung chuyển, nước đổ từ trên trần xuống sẽ khiến bạn cảm thấy như được tận mắt chứng kiến cảnh tượng ra đời của nó từ hàng triệu năm trước. Phía bắc của thác Móng ngựa (Horseshoe Falls) là ghềnh White Water Walk, cũng là một địa điểm bạn không nên bỏ qua khi đến đây.

 

Mùa thu

Vào mùa thu, khi những hàng cây bắt đầu trổ lá vàng, lá đỏ tạo nên một bức tranh đầy màu sắc của thác Niagara. Với tiết trời mát mẻ, các cặp tình nhân thường tìm đến đây để tăng thêm phần lãng mạn trong tuần trăng mật ngọt ngào. Hầu hết những hoạt động dịch vụ của mùa hè như chuyến tàu du lịch hai tầng Maid of the Mist, ghềnh White Water Walk vẫn mở cửa hoạt động. Đặc biệt vào mùa thu, thác Niagara luôn xuất hiện cầu vồng, có những thời điểm xuất hiện 3 - 4 cầu vồng cùng một lúc.

Tháng 9 và 10 là mùa thu hoạch của những vườn nho ở Niagara, và đó là lý do cho những tour du lịch thưởng thức rượu vang ngày càng phổ biến vào khoảng thời gian này. Niagara là vùng sản xuất rượu vang lớn nhất của đất nước Canada, với hàng chục nhà máy sản xuất rượu vang nằm xung quanh khu vực Niagara-on-the-Lake và Twenty Valley.

 

Mùa đông

Tại sao bạn nên đến du lịch Niagara vào mùa đông khi tuyết rơi và mọi thứ đều đóng băng? Lựa chọn đến thác Niagara vào mùa đông thật sự không phải là một ý tưởng tồi và bạn có thể tiết kiệm được kha khá tiền thuê phòng. Rất nhiều khách sạn giảm giá trong khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm.

Đặc biệt, tháp Niagara cực kỳ lung linh, huyền ảo trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội ánh sáng mùa đông, một lễ hội với những màn trình diễn ánh sáng đặc sắc trên nền thác đổ từ tháng 11 đến tháng 1 hàng năm. Ngoài ra, vào mùa đông khi nước đóng băng, bạn còn có thể trải nghiệm cảm giác trượt băng hoặc đi bộ trên mặt hồ.

Nếu cảm thấy đã đủ với thác Niagara, bạn có thể tiếp tục hành trình tới những địa điểm trong nhà tại đây. Một trong những điểm đến hấp dẫn nhất vào mùa đông là Nhà bướm nhiệt đới, nơi có hơn 2.000 con bướm đầy màu sắc. Bướm đậu trên những cánh hoa, trên tay của những vị khách ghé thăm nơi đây. Trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí vé vào cửa. Hoặc ghé thăm Vương quốc của các loài chim (Bird Kingdom), nơi tập trung hơn 400 con chim với gần 80 loài khác nhau.

Cầu Cổng Vàng (Golden Gate Bridge) hay Kim Môn Kiều là cây cầu treo nối liền Cổng Vàng, cửa ngõ vào vịnh San Francisco và Thái Bình Dương, được xếp hạng thứ năm trong danh sách những kiến trúc Hoa Kỳ được yêu thích do Viện Kiến trúc sư Hoa Kỳ bầu chọn năm 2007. Cầu được xây dựng bắt đầu vào ngày 05 tháng 1 năm 1933, và được hoàn thành vào tháng 4 năm 1937. Lễ khánh thành bắt đầu ngày 27 tháng 5 năm 1937 và kéo dài một tuần.

Chi phí ban đầu cho dự án xây cầu Cổng Vàng là hơn 35 triệu USD. Tuy nhiên, khi dự án hoàn thành vào tháng 4 năm 1937 thì chi phí này là thấp hơn ngân sách cho phép 1,3 triệu USD. Mặc dù gọi cây cầu này là “Cổng Vàng”, nhưng thực tế thì màu của cây cầu được gọi một cách chính thức là màu cam đỏ, được biết đến qua cái tên “quốc tế cam”. Kiến trúc sư tư vấn Irving Morning là người lựa chọn màu sắc cho chiếc cầu bởi vì nó phù hợp với môi trường tự nhiên xung quanh và cũng để nó có thể nổi bật được giữa lớp sương mù, làm ‘bật lên’ vẻ đẹp của vịnh San Francisco.

Khi được hoàn thành vào năm 1937, Golden Gate Bridge là cây cầu treo dài nhất trên thế giới, và đã trở thành một biểu tượng quốc tế của San Francisco, California, Hoa Kỳ. Kể từ khi hoàn thành đến nay đã có tám chiếc cầu khác có chiều dài vượt qua Cầu Cổng Vàng.

Độ dài nhịp chính 4.200 foot (1.280 mét) của Cầu Cổng Vàng đã giữ kỷ lục thế giới trong suốt 27 năm. Hai cặp tháp chính của cầu cao 746 feet (227 mét), cao hơn 191 feet (58 mét) so với Đài kỷ niệm Washington. Năm làn xe trên cầu băng qua Eo biển Cổng Vàng trên độ cao 400 feet, tức 130 mét.

Cầu Cổng Vàng là một trong những công trình xây dựng giao thông vĩ đại nhất của nước Mỹ trong thế kỷ 20, tuy nhiên nó lại được mệnh danh là “Bãi tự sát nổi tiếng thế giới” với số lượng người đến tự tử khá đông. Kể từ thời điểm cầu được xây dựng hoàn thành, đã xảy ra 1.500 ca tử vong vì tự tử tại cầu và thực tế ngạc nhiên là có 26 người sống sót. Theo Reuters, cầu Cổng Vàng là cây cầu mà người ta hay chọn để tự tử nhiều thứ 2 thế giới, sau cầu bắc qua sông Dương Tử ở Nam Kinh, Trung Quốc.

Cầu Cổng Vàng rất nổi tiếng, được nhiều nhà sản xuất phim ảnh chú ý, lấy làm bối cảnh cho nhiều phim như: “It Came from Beneath the Sea”, “Superman: The Movie”, A View to a Kill, Interview with the Vampire, Vertigo, Boys and Girls, The Core, “X-Men: The Last Stand”, Monsters vs. Aliens, 10.5, Mega Shark vs. Giant Octopus. Nhiều phim cho truyền hình cũng lấy bối cành cây cầu này như: Star Trek, Grand Theft Auto: San Andreas và Sudden Attack.

Kể từ khi hoàn thành, Cầu Cổng Vàng bị đóng cửa 3 lần do các điều kiện thời tiết: vào ngày 01 tháng 12 năm 1951 do gió mạnh lên đến 111 km/giờ; vào 23 tháng 12 năm 1982, do gió mạnh 113 km/giờ; và ngày 03 tháng 12 năm 1983 với sức gió 121 km/giờ.

 

Page 1 of 2